Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

Trai làng Vìn ngày ấy



1.
Hoa gạo bay giữa trời như pha thêm cái màu ửng hồng trên những cánh đồng lúa sắp vào vụ gặt. Một rẻo năm làng một giáp phía Đông Nam dãy Nưa sơn rậm rịch xuống đồng. Như mọi năm, Hội cầu mùa lại rộn lên bên dòng sông Lãng. Mở đầu Hội cầu mùa là cuộc thi đoạt Hệch với cái giải một trăm thưng thóc. Hữu cốc, Đậu yên, Cung điền, Côn cương và Giáp Mai, bốn làng một giáp tranh tài cùng làng Vìn.
Hệch là cái tù và làm bằng sừng trâu. Làng cần một thanh niên nhanh nhẹn, mưu trí, bằng mọi cách tìm ra hoặc cướp được chiếc sừng của con trâu thắng cuộc trong cuộc chọi trâu khởi đầu lễ hội. Ngũ hương(1) làng Vìn đã họp mấy lần mà vẫn bất đồng ý kiến về việc chọn hay không chọn Viết. Tìm ra cặp sừng đã khó, tìm được rồi lại phải giấu mà giấu thế nào để đấu sỹ các làng khác dù có phát hiện ra cũng không thể lấy lại. Quả thật, không dễ chút nào. Đã thế, thời gian lại ngắn ngủi chỉ trong một màn chèo Lưu Bình Dương Lễ, kể từ lúc chàng Lưu cất tiếng nàng ơi đến khi nàng Châu Long hát hết câu tiễn chàng về kinh ứng thí thì tất cả phải dừng lại. Năm ông lý, hương đành phải đệ lên Hội đồng Quan viên(2). Cuối cùng, Viết được chọn. Bạch diện thư sinh lại chỉ quen ăn trắng mặc trơn nhưng cái lý Viết là con trai Lý trưởng Lê Hộ đã thắng!
 Như đã kể, cuộc thi bắt đầu bằng cuộc chọi trâu và con trâu thắng cuộc sẽ được mổ thịt khao làng! Một trong hai chiếc sừng của đôi sừng con trâu vinh hạnh ấy, sau khi được nhập phép Thần Nưa sẽ được chế tác thành cái tù và(5) bít đồng bít bạc. Tiếng rúc của chiếc tù và này rất linh thiêng. Nông Cống ngày xưa có tên là Tư Nông, xưa hơn nữa đời Đường là Di Phong có nghĩa là bão, đời Hán là Cư Phong có nghĩa là lốc, thiên tai đã triền miên lại thường xuyên bị ngoại bang Chiêm Thành quấy nhiễu nên một khi tiếng tù và đã cất lên thì nam phụ lão ấu đều coi đấy là một lời hiệu triệu.




Năm nay đến lượt làng Vìn đăng cai. Lý trưởng bổ đầu các hộ lấy tiền sửa đình. Mái ngói phải đảo lại, tường gạch quét vài nước vôi mới. Bàn thờ và những đồ tế nhuyễn cũng được đánh lại dù nước sơn còn đẹp. Nhũ vàng lấp lánh bóng ngời, gian chính tẩm rực lên nom thật có không khí hội hè.
Việc kỳ công nhất là chuẩn bị con trâu chọi. Một chú đực đen ức nở mông rộng được chọn mua tận vùng núi Như xuân, giao cho một nhà có bốn người con trai nuôi dưỡng. Nhà này còn cấm ngặt mấy đứa con gái không được sờ đến cái dây thừng. Việc chăn thả, tắm rửa, hun muỗi đêm đêm… tất tật đều do bốn “đồng nam tứ tử” này thay nhau. Ai cũng khen con trâu tầm đại có hai cái sừng mập mạp được chuốt mài nhọn hoắt và đặc biệt, đôi mắt lúc nào cũng long sòng sọc với cặp cà lủng lẳng như cái giỏ tích, trông thật hiếu chiến và đường bệ.
Đình làng Vìn rợp bóng cờ. Lá cờ Phật mỗi bề rộng tám thước ta lồng lộng trên nóc tam quan. Bên dưới, cứ vài chục bước lại cắm một lá cờ phướn hoặc cờ chuối, một dải đường làng suốt từ sân đình ra đến đường cái quan cờ bay phần phật. Trong nắng đầu mùa, tiếng trống tiếng nhị hòa vào gió nồm nam lay động khắp một vùng.
Ngoài bãi, trống ngũ liên đang thúc liên hồi. Từ lúc mặt trời nhô khỏi rặng tre, cuộc chọi trâu đã bắt đầu. Trâu làng Vìn vừa thấy đối thủ đã bứt dây thừng lao vút lên đương đánh chát vào giữa đầu con trâu Giáp Mai. Cú đương mạnh đến nỗi trâu Giáp Mai khuỵu ngay xuống rồi lật nghiêng, bốn cẳng cào không khí. Đến vòng sau, nó lần lượt quật ngã trâu Cung điền, Hữu cốc. Rồi nó bị dắt về cầu ao sau đình, cụ tiên chỉ phì phào: giỏi lắm, giỏi lắm, chỉ có mi mới xứng đáng dâng lên Thần Nưa...
Đoàn rước ngựa hồng ngựa bạch vừa về đến sân đình thì cuộc thi vật bắt đầu. Vóc dáng khỏe mạnh, cơ bắp rắn chắc, với vành khăn điều ôm thắt lưng nom Kiên thật khác với cái dáng dong dỏng phất phơ của Viết. Lợi thế sân nhà, người làng hò hét đã tạo khí thế áp đảo lại có Viết đứng ngoài mách nước, Kiên thắng hai hòa một được xếp quán quân.
Uống vội bát nước nụ vối, cặp Kiên Viết lao vào cuộc tìm đôi sừng trâu. Tiếng dao thớt rộn lên ở sân sau, người pha người thái chăm chắm vào phản thịt. Ai cũng nói cười bẻo lẻo, chỉ có cô con gái ông Bạ Tín đứng lặng im nơi cái bàn quầy hay lén nhìn xuống tấm da trâu gấp mà như cuộn. Viết đã nhìn thấy cái bọc chẳng ra dài mà cũng chẳng ra vuông ấy, cậu ta ỡm ờ:
- Sao mà cứ hay nhìn xuống đó thế, cô em?
Cô con gái ông Bạ Tín đỏ mặt cúi xuống đẩy cái bọc da trâu vào sâu trong gậm. Vẻ mặt lúng túng của cô đã thú nhận hai cái sừng trâu đang giấu ở đấy. Viết ra hiệu cho Kiên lặng im rồi bá vai nhau đi vào đình trung.
Hai cậu cứ bá vai nhau nhìn lên thượng lương như là để đếm long ly quy phượng. Mấy ông bên họ Vũ, họ Nguyễn đã từng phản đối việc chọn Viết, lúc này nhìn điệu bộ của cậu ta lại càng điên tiết. Ông Lý cũng lo đến thắt ruột. Cái thói đủng đỉnh của hai đứa thật chẳng ăn nhập gì với cái cảnh đôn đáo của những cặp trai làng khác. Có người đã quát lên nhưng kệ, Viết và Kiên cứ thư thả cuộn sợi chão dừa, cuộn vào rồi lại mở ra. Bất ngờ, Viết nhảy bổ về phía cô con gái ông Bạ Tín mở bộ da trâu, cướp lấy đôi sừng. Trong đình, Kiên tung viên gạch qua cái quá giang(4), viên gạch kéo theo sợi chão cứ vòng đi vòng lại quấn chặt vào cây gỗ biến thành cái thang dây. Viết cởi dải điều buộc đôi sừng khoác vào lưng rồi bám thang dây leo lên. Khi trai các làng chạy vào thì Viết đã chễm chệ trên quá giang, phần thòng xuống của sợi chão cứ bung beng như cái dấu hỏi!   
Ai cũng nhìn thấy cặp sừng trâu buộc bằng dải lụa treo nơi bát trụ(5) mà không có cách nào lên được. Đình làng náo loạn. Một lần nữa cụ tiên chỉ lại phải phì phào hò hét. Con nhà Lê Hộ mà rơi xuống gẫy cổ thì làng sẽ gặp không biết bao nhiêu tai họa! Không ai còn nghĩ đến việc đoạt lại cặp sừng mà rối rít hò nhau căng tấm da trâu sẵn sàng hứng anh con trai nhà Lê Hộ.
Viết nghễu nghện chỉ tay xuống mấy pho tượng:
 - Đấy chỉ là những khúc gỗ mít được người ta đẽo tạc!
Phạm húy, đại phạm húy. Lộng ngôn, đại lộng ngôn. Cụ tiên chỉ mắng một thôi một hồi nhưng cái tội phạm húy và lộng ngôn của Viết với nỗi lo anh con Lý trưởng rơi gẫy cổ, không biết cái nào lớn hơn. Mặt cụ trông thật khổ não. Mấy anh tuần mang cái thang tre đến nhưng Viết vẫn không chịu xuống. Cậu ta đưa cái nhìn khắp lượt:
- Sừng treo ở bát trụ đây này! Giáp Mai nào, Hữu cốc nào… đố đoạt được đấy. Chắp tay xin chịu thua đi…
Viết cứ thao thao nhưng khi nghe tiếng e hèm của Vũ Dinh thì dừng lại ngay. Kép nhị kép sáo nãy giờ cũng đang cố kéo cố thổi để khỏa lấp cái lỗi của kép Châu Long quên hát câu tiễn Lưu Bình. Người vây kín vòng trong vòng ngoài, tiếng nói tiếng cười nén chặt ba gian đình sặc sụa mùi mồ hôi người và mùi thịt trâu. Mấy chàng trai trẻ há mồm thở gấp, họ vẫn dựng thang chờ Viết nhưng chủ khảo chưa phát lệnh hiệu.
Lời tuyên bố “Làng Vìn thắng cuộc” chưa dứt thì kép nhị kép sáo đã ngưng ngay. Khối người tan òa ra rồi lại tụ thành vòng tròn quanh bọn đồng nam ấu nữ rồng rắn ngoài sân:
Con ông Nưa, cháu ông Nưa
Mặc lòng đi sớm về trưa
Làng Vìn hòa thuận, cày bừa, làm ăn
Hệch vang là tiếng Nưa thần…




2.
Làng Vìn thắng cuộc trong sự bất tâm khẩu phục. Cái cách dành đôi sừng thì không ai dám nói gì nhưng Viết đã lợi dụng nó để phỉ báng thần quyền bị hương chức các làng phản ứng. Cỗ đã dọn mà khách bỏ về hết, chỉ còn người làng Vìn vào mâm. Được vài tuần rượu thì Viết lại lần đến chiếu các cụ quan viên, gân cổ:
- Những Núi Quảy, sông Cày, đồi Đòn Gánh trong truyền thuyết Nưa sơn chính là thành quả lao động của con người chứ đâu phải do thần thánh tạo ra. Máu và mồ hôi của nhiều thế hệ nhân dân đổ trên mảnh đất quê hương tạo dựng nên xứ sở…
Chỉ khổ Lý Hộ. Đã có người vỗ thẳng vào mặt ông ta: thằng con anh láo quá! Cái tội ngự lên đầu Thành hoàng ít ra cũng phải đền bằng bữa cỗ trám miệng mấy chục quan viên chứ chưa nói đến chuyện cậu ta dám chỉ vào đầu các ngài mà nói bậy! Nhưng nỗi lo của Lý Hộ không phải chuyện gạo lợn. Gia tài cự vạn thì mấy trăm miếng trầu với mấy dạ thóc, con lợn choai bất quá bằng kiến đốt cối đá. Ông ta lo vì chưa nghĩ được cách gì đối phó với Vũ Dinh!
Vũ Dinh luôn mỉm cười. Nụ cười của ông là lời khen các cậu làm tốt lắm. Khi Viết và Kiên được làng chọn, Vũ Dinh đã giao nhiệm vụ “Đả phá thần quyền”(6) cho hai người. Đế quốc phong kiến sử dụng thần quyền để mê muội dân chúng, nhồi vào đầu óc họ tính thụ động chỉ biết nhẫn nhịn nghe lời mà quên mất có áp bức ắt sẽ có đấu tranh. Ông bày mẹo dùng chão dừa làm thang dây, mang đôi sừng trâu lên xà nhà ngự trên đầu mấy pho tượng ngõ hầu thức tỉnh dân chúng…  
Chuyện thật mà như đùa. Vũ Dinh đang làm Lý trưởng làng Vìn thì xin nghỉ không nói lý do. Làng tưởng ông giành thời gian đọc sách chuẩn bị vào Huế thi Hương, nhưng không phải. Ai nhắc đến chuyện cá chép vượt vũ môn thì ông đáp lại bằng tràng cười, rồi đây đó bày trò nghịch ngợm cho bọn trẻ.
Người đời đơm đặt cho ông rất lắm chuyện nhưng sự thật là ông đã được Hội đồng Quan viên lựa chọn làm Lý trưởng lúc mới hăm hai tuổi. Quảng giao, học nhiều biết rộng, những tố chất đó đã thuyết phục hoàn toàn các bô lão. Có mấy người còn rất quý ông vì ông đã dạy họ biết đọc biết viết. Những người này đọc được sách canh nông đã đem kiến thức khoa học vào gieo cấy trên thửa ruộng nhà mình. Cây lúa được cấy trồng có kỹ thuật, hạt sai mẩy hơn, thóc xay ra gạo thổi cơm ăn cũng ngon hơn.
Tri huyện(7) Bùi San đã có chỉ dụ phải coi chừng Vũ Dinh. Đừng tưởng ông ta chỉ đi đây đi đó bày trò chơi. Sở Liêm phóng(8) đã thông báo danh tính những kẻ có giao du với bọn phản loạn ở Ba đình(9), trong đó có tên Vũ Dinh. Lý Hộ được rỉ tai:
- Nghe nói ông ta đã gia nhập Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (10) do ông Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng châu bên Trung quốc, nhóm của ông ta bí mật tuyên truyền bằng các hình thức học chữ quốc ngữ, đọc sách báo… suốt mấy làng dọc sườn Đông dãy Nưa sơn.
Lý Hộ thúc Trương Nẫm (11) đốc tuần đinh(12) bám nhà Vũ Dinh. Một đêm, mấy anh tuần rình qua vách phên thấy ông viết rất nhiều, những tờ giấy găm lại thành tập khiến họ liên tưởng đến tài liệu tuyên truyền. Không anh nào biết chữ nên đám tuần cứ chí chóe cãi nhau. Ông Dinh đã gọi vào nhà pha trà mời uống rất đàng hoàng rồi ông đọc Làm người phải khéo phải khôn/ Khéo về sản xuất, khéo môn học hành… Đấy là những câu thơ ông viết trong bài “Răn con cháu họ Vũ”(13). Đám tuần đinh ngượng nghịu, từ đấy Trương Nẫm thúc cũng chẳng mấy anh đinh chịu đi rình, Vũ Dinh mới được rảnh rang một chút.
Bữa cỗ đã gần tàn. Giữa đình có tiếng người sai lấy tăm rất hách. Một anh tuần chạy ra bẻ một nhánh hao từ cái chổi dựng ở góc sân mang lại đưa cho ông Cả Chanh. Cả Chanh tím mặt phang thẳng ba toong vào đầu anh ta. Cái ba toong không trúng đích lại bị anh ta túm được, chỉ một cái giật nhẹ ông ta đã bị ngã sấp xuống nền gạch. Cả đình cười nghiêng ngả nhìn theo bóng Cả Chanh khập khiễng ra khỏi tam quan(14).
Quan viên ăn trên ngồi trốc, quan quân thông lại nhũng nhiễu đủ trò. Bao chèn ép bất công đè xuống đôi vai người dân làng Vìn nhưng mấy năm trước làm gì có ai dám chống lại? Chỉ có Vũ Dinh. Ngày còn làm Lý trưởng, ông đã chơi Cai Đoan(15) quen thói vòi ăn. Hôm ấy hắn đòi thết rượu. Trước khi vào mâm, ông đã đốt bó đuốc cắm vào cái máng hỏa bên cây cột cái, ngọn lửa phừng phừng như muốn lém mái kè. Cai Đoan sợ cháy nhà dân làng Vìn sẽ kéo đến nhưng ông Dinh cười nhạt “Nhà cháy thì làm cái khác”. Chỉ một câu thế thôi mà Cai Đoan lập cập ôm ca táp chuồn thẳng.
Những khi phải đi đây đi đó, ông Dinh giao việc dạy chữ cho Kiên và Viết nhưng xem chừng người học còn e dè với Viết lắm. Chân tay nuột nà áo quần là lượt quá đối lập với quần nâu áo vải mặt sạm thân gầy của họ. Giữa họ với Viết là cả một khoảng cách giàu nghèo, chủ tớ. Những người ngồi học đương là tá điền hoặc từng là tá điền của nhà Lý Hộ thật khó đồng cảm với cậu công tử quen ăn trắng mặc trơn. Nhiều người đã bỏ học nhưng sau hội Hệch, họ lại xách đèn chai đến lớp:
- Cậu Viết không sợ Thành hoàng “vật” cho à?
- Không. Tôi nghĩ Thành hoàng làng Vìn không bao giờ “vật” con cháu làng Vìn. Các ông có biết Thành hoàng làng mình là ai không? 
Viết kể lại câu chuyện nghe được từ Vũ Dinh. Một ông quan thất sủng từ đời Trần phải ăn xin dọc đường mới dẫn được đàn con từ kinh thành về núi Nưa. Lúc đầu, cha con làm cái chòi trong lũng Chân Chim, sau con cái lớn lên lấy vợ lấy chồng, phải dựng thêm nhà, tách hộ. Đất Đông Nam Nưa sơn màu mỡ như gọi như mời người tứ xứ, nhà cửa tiếp tục mọc lên. Thế là thành ấp, thành làng. Năm 1502, một hậu duệ của ông quan ấy là cụ Nguyễn Đốc đã thi đỗ Hoàng giáp được nhà Lê khắc bia đá tôn vinh ở Quốc Tử Giám(16). Sáu năm sau lại có hai anh em nhà họ Lê(17) cũng thi đỗ Hoàng giáp. Ngôi Nghè(18) làng xây từ ngày ba cụ Hoàng giáp vinh quy vẫn còn to đẹp là nhờ con cháu nhiều đời kiên trì tu bổ. Ông quan bị thất sủng ấy chính là Thành hoàng làng mình.
- Thành hoàng làng mình cũng là con người, dãi dầu mưa nắng như chúng ta, quăng quật với đời như nhiều người, đã trải qua thân phận hiển vinh khi làm quan, nghèo khó đến mức phải ăn xin ăn mày khi gặp nạn, rồi lại bới đất nhặt cỏ trồng lúa trồng khoai trên mảnh đất này mà nuôi dạy con cháu nên người đỗ đạt.
Dừng lại khêu chiếc đèn dầu lụn bấc, Viết nói tiếp:
- Vậy mà, mấy chục năm nay sự học kém đi, các bác bây giờ ba bốn mươi tuổi mới học ghép vần, thử nghĩ xem vì đâu!
Mấy anh tá điền cứ há hốc mồm ra nghe. Họ đã biết ngôi Nghè ngày xưa các cụ xây để đón quan Hoàng giáp nhưng bây giờ mới hiểu làng mình có đến ba ông đã đỗ Hoàng Giáp là học vị rất cao trong những kỳ thi trọng của quốc gia. Thế mới biết cái chữ quý đến nường nào, trong lòng họ càng thêm cảm phục những người biết chữ, nhờ biết chữ mà biết được bao điều.





3.
 Bếp Dị(19) xộc vào nhà anh trai. Con chó vàng giật mình xồ ra bị ngay một cú đá vào hông cụp đuôi lủi vào chái bếp.
Khác hẳn với anh trai, ông Dị có lối nói năng rất hách. Ba năm viễn dương làm lính thợ ở Mac- xây(20), về làng ông nhìn cái gì cũng kém cỏi. Lâu nay ông vẫn tỏ ra chẳng biết sợ ai nhưng hôm nay thì ông hoảng thật sự:
- Thằng Kiên đâu rồi?
Câu hỏi trống không trong heo may se lạnh.
Ông Thường đã biết chuyện ngoài đình. Nghe ầm ĩ, ông chạy ra đúng lúc Tri huyện Bùi San đang quát nạt Lý Hộ và đám lý hương làng Vìn. Đám tuần đinh nhốn nháo trước đình chưa hiểu việc gì đã xảy ra nên anh nào cũng ngơ ngác. Nhưng ông đã hình dung ra mọi việc. Và ông lo. Kiên đi với Viết từ tờ mờ sáng đến bây giờ vẫn chưa về. Nỗi lo của người đàn ông đang trở về già trong một dòng họ vốn nhiều đời độc đinh lại ập về. Ông lẳng lặng quay về cùng với nỗi lo ngổn ngang thường nhật ấy. Chưa lúc nào ông cần có người thân bên cạnh như lúc này nhưng thấy em trai đang nóng, ông phải nhẩn nha.
- Chú lên nhà đã. Có ấm chè xanh mới hãm…
Thấy dáng vẻ lù dù của anh trai, ông Dị dịu lại: 
- Thằng Kiên có nhà không anh?
- Nó với thằng Viết thằng Ngô đi đâu từ lúc tinh mơ, chưa về.
Ngồi với anh trai mà vẻ mặt ông Dị thật khó tả. Vụ rải truyền đơn chợ Huyện(21) sáng nay đang gây xôn xao khắp huyện. Tin đồn một thành mười, mười thành trăm. Tri huyện sai lính chặn các ngả nhưng không bắt được ai, cuối cùng đã kéo theo mấy tên lính tốc xuống làng Vìn.
Ông Dị biết chuyến này anh em ông sẽ gặp rắc rối nhưng chạy quan trên là chuyện ông rất ngại. Trước nha môn cái hàm bếp của ông có được ai coi ra gì nhưng tính cương còng của một anh bếp về làng lại cứ nói với ông một điều khác hẳn. Khi đồn trú ở Mác xây, ông nghe người ta kể về những người Bôn sê vích(22) đã tổ chức dân chúng vùng lên đánh đổ Vua Sa hoàng(23), tiêu diệt chế độ tư bản nước Nga. Họ dựng lên chính quyền của dân, thợ thuyền làm chủ xưởng máy, nông dân làm chủ ruộng đồng. Đội quân mà ông phục vụ gồm người của nhiều nước, họ biết rất nhiều chuyện nhưng ông không thạo tiếng Anh tiếng Pháp, những điều nghe được cũng chỉ lỗ mỗ. Hiểu biết của ông còn rất sơ sài nhưng lòng ông đã mang mang một nỗi mong chờ. Thế mà, thằng cháu đích tôn của họ Nguyễn nhà ông đã cảnh cáo bọn thực dân phong kiến bằng cách rải truyền đơn, bất giác ông lẩm bẩm: hãy đợi đấy!
Tri huyện lật xem mấy tờ truyền đơn lính nhặt được trên chợ. Đả đảo quan lính bắt dân đi phu làm đồn điền cho bọn tư bản. Đả đảo chế độ thuế thân thuế điền hà khắc… Giong điệu này là của Vũ Dinh chứ xứ này chưa thể nghĩ được như thế này. Tri huyện phán đoán, hai thanh niên lai nhau bằng xe đạp chắc chắn là hai học sinh trường Pháp Việt Cầu quan. Tuy không bắt được người nhưng Tri huyện Bùi San đã đinh ninh tám chín phần như vậy và một kế hoạch đã được sắp đặt trong đầu.
Nhà Viết giàu, cậu được cả họ Lê coi như thần tượng. Tất nhiên, bố mẹ cậu tự hào về cậu lăm lắm. Viết được cưng chiều đủ thứ, quần áo may bằng vải Tuytso pha len(23), chân dận giày Ba ta, cưỡi xe đạp Supe Glop(24)… Lý Hộ vẫn hay được đám Thông Phán(25) ý tứ nhắc nhở phải chú ý rèn bảo cậu con. Nó phớt lờ mấy anh thừa phái, lính lệ cũng chẳng sao nhưng gặp Tri huyện mà mặt cậu ta cứ vênh lên thì không thể chập nhận. Các ngài quen được người ta kính cẩn, chịu sao nổi cái thằng mới nứt mắt đã dám coi thường mình. Mẹ Viết van lạy Viết, cậu ta huýt sáo miệng cho qua rồi cứ chứng nào tật nấy. Thế là Lý Hộ lại phải lo quà cáp biếu xén, mà lạ, càng biếu xén bọn Thông Phán lại càng hay nhắc nhở.
 Không những thế, trong một buổi văn nghệ của trường Cầu quan, Viết và Kiên đóng một hoạt cảnh hai vai, vai ông bụng phệ mắt đeo kính là hai cái đít chai khúm núm chắp tay lạy vai thứ hai là một bà có giọng cười he he giống hệt bà Huyện. Đã thế bà ta lại cứ phẩy tay gọi anh huyện, anh huyện... Các cậu ấm được trận cười hả hê về nhà kể với cha mẹ, thế là đến tai Tri huyện. Tri huyện bực lắm. Đã học đến đệ tam không cố gắng mà qua đệ nhị nhất niên đệ nhị nhị niên rồi lên đệ nhất đoạt bằng Prime đi làm Thông làm Phán lại cứ hay đốc chứng. Ngỗ ngược như vậy thì chỉ có nước mà làm giặc! Thật phí cơm gạo cha mẹ phí cả công rèn cặp của các thầy. Vị trí đen của Viết đã hình thành như thế, đến hôm nay lại càng đậm màu hơn trong đầu óc Bùi San.
Viết với Kiên, một thằng con Lý Trưởng, một thằng cháu Hương Kiểm(26), kể ra thì cũng đáng là hai cái mổ để dào tiền đào gạo. Nhưng đàn đúm với Viết, Kiên còn những đứa nào? Rồi dân chúng làng Mai, làng Múng… suốt một dải Nưa sơn u u minh minh không biết đã bị chúng xúi xằng xúi bậy những gì?
Bùi San lại nhìn những tờ giấy viết tay bằng lối chữ in, những dòng chữ kêu gọi chống thuế chống đi phu như những cái gai chọc vào mắt ông. Nhưng ông ta vẫn không quên lời vợ phải tìm cách thu về chỗ tiền bỏ ra mua chức! Hạng công tử bột như Viết, củ mỉ cù mì như Kiên có bắt về huyện quá lắm cũng chỉ giam vài ngày rồi thả! Đối tượng chính mà Bùi San muốn tróc là cái gia tài nhà Lý Hộ, thóc lúa ruộng vườn và bao nhiêu của ngon vật lạ, cá nã thẳng cánh khắc Lý Hộ phải lên rừng xuống biển mà tìm.
Khi ngựa của Tri huyện Bùi San xuống đến làng Vìn, Lý Hộ chắp tay, cúi đầu, mặt không còn hột máu. Mấy anh tuần theo Trương Nẫm và lính lệ bổ đi các ngả. Một toán trói giật cánh khuỷu ông Dinh điệu ra đình. Hai toán khác chạy về bẩm không tìm được Kiên và Viết. Bùi San vẫn bình thản:
- Nội nhật hôm nay, làng Vìn phải đưa Lê Viết và Nguyễn Kiên lên trình diện tại nha phủ. Ông Lý trưởng và ông Hương Kiểm chịu trách nhiệm việc này, nghe chưa?
Không thèm đếm xỉa đến lời mời ở lại dùng bữa, Bùi San nhẩy lên lưng ngựa cùng lời nạt “Nhớ đấy”.







4.
Tri Huyện đi rồi, Lý Hộ quay lại quát ông Dị. Ông Dị tức quá giật tay thước của anh tuần định phang Lý Hộ nhưng chợt nhớ tình cảnh đơn mỏng của họ Nguyễn nhà mình, thanh gỗ lim ném xuống mặt sân vang lên một tiếng khô khốc. Lý Hộ rợn tóc gáy lẳng lặng bỏ đi.
Ông Dị về nhà anh trai, cơn giận dồn vào câu hỏi trống không. Cho đến lúc ngồi bên anh trên cái chõng tre, nghe vòi chè xanh rót tong tóc vào đôi bát chiết yêu(27), ông bỗng giật mình. Nỗi giận của ông do Lê Hộ và Bùi San gây ra chứ anh ông có tội tình gì. Những cái bong bóng vừa bám vào thành bát đã vỡ ra, hương chè thơm nồng như quyện cùng tiếng heo may rì rào trên những ngọn kè khiến ông chùng lại. Ông không nỡ nói với anh về vụ rải truyền đơn, càng không nỡ nói về cái lệnh đem cháu lên nộp nha phủ. Ông đã nghĩ đến chuyện mang gạo tiền lên bà Huyện nhưng phận hương quèn đâu có dễ vào cửa quan Tri. Nhờ Lý Hộ thì ông không thể, biết mấy cho đủ với họ Lê. Nhưng ông rất coi trọng cái lon bếp của mình. Tuy vào hạng cùng đinh của ngạch nhà binh nhưng đó là cấp hàm do quân đội Đông Pháp tấn phong, người mang cấp hàm ấy có đẳng cấp hơn hẳn cái lão Lý vườn như Lê Hộ!
Nghĩ đi thì thế nhưng nghĩ lại, tối nay không đưa thằng Kiên lên nộp huyện thì biết đưa thằng nào? Mặt trời đã vượt qua hàng kè, chỉ còn một buổi trưa và một buổi chiều! Bếp Dị thấy bí quá. Ông thở dài thành tiếng: Kiên ơi, bây giờ cháu ở đâu?
Lục tìm trong trí, ông đoán cháu ông có thể trốn vào cái chòi canh lợn lòi trên đỉnh núi Nưa. Nơi ấy hoang vắng, trốn ở đấy khá an toàn. Rồi ông chợt nhớ bụng các công tử bây giờ chắc là đã đói lắm rồi:
- Nhà còn khoai nham(29) cho em xin một ít?
Khoai chạy lụt thái phơi không xuể, ông Thường đồ lên bóp nhuyễn với đường phên rồi sấy khô cất vào chum phòng khi thất bát. Ông hiểu ngay em ông định làm gì. Vừa lúc, tiếng cái Hĩm rối rít từ ngoài ngõ:
- Thầy ơi, thầy…
Cả ông Thường, ông Dị đều giật mình.
- Thày và chú không biết đâu. Hai anh lớn bằng anh Kiên nhà mình phóng xe như bay tung giấy trắng cả chợ. Người ta tranh nhau, con chạy ra nhặt được một tờ đây này!
Nó lần trong cạp quần lấy ra mảnh giấy bằng bàn tay có dòng chữ “Phản đối bắt dân đi phu khai đồn điền lập ấp cho bọn thực dân, phong kiến”. Nhận ra nét chữ của Kiên, mặt ông Thường đỏ bừng. Hai tay ông run run giấu mảnh giấy vào cái khăn đang đội trên đầu nhưng vừa giấu xong, ông lại lúng túng bới ra đưa cho em trai. Ông xúc động lắm. Nỗi lo lắng trong lòng không át được niềm tự hào thằng Kiên con ông đã lớn thật rồi!
Ông Dị đọc mảnh giấy, mắt ông hoa lên. Từng con chữ bắn ra ngàn tia lửa như miệng khẩu súng hỏa mai phát nổ. Đến lúc này, ông Thường mới bảo ông Dị:
- Tối hôm qua mấy đứa chụm đầu viết rồi cuộn vào vỏ cái ống bơm, sáng nay chúng lai xe nhau đi từ lúc tờ mờ. Chuyện ngoài đình tôi nghe mà lo cho chú lắm. Bên ông Lý thế nào cũng phải chạy cho thằng Viết. Trước khi đi thằng Viết dặn tôi cứ để bố nó lo, nhà mình chờ xem thế nào rồi hẵng tính.
Ông Dị như được thoát lên từ đáy nước. Hóa ra trong cái dáng lù dù của anh là sự tinh tường mọi nhẽ. Một niềm lạc quan, một sự tự hào đủ cho ông lấy lại thăng bằng. Họ nhà ông làm gì đến nỗi. Ông còn người anh họ mà theo ông là người rất quảng bác. Đấy là Vũ Dinh. Cảm giác đơn mỏng đang được xóa dần. Từ ngày về làng ông hay ngồi nói chuyện với ông Dinh, nghe ông Dinh giảng giải về đảng Bôn sẽ vích và chính quyền Xô Viết ở nước Nga theo một triết lý rất mới. Tất cả vì lợi quyền của những người lao động, đảng Bôn sê vích được những người lao động hưởng ứng đã đoàn kết thành một khối thống nhất có sức mạnh vô biên đã làm cuộc cách mạng Vô sản lật đổ ách áp bức bóc lột của chế độ Nga hoàng. Nhà nước Xô Viết được lập nên đang tổ chức xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho hàng trăm triệu người. Những người Bôn sê vích đó, ông Dinh gọi là những người cộng sản.
Lần đầu tiên bếp Dị được nghe hai từ “Cộng sản” ngay tại làng Vìn. Ông quan niệm Vũ Dinh, Nguyễn Kiên chính là người cộng sản. Ông mong đất nước mình cũng sẽ được như nước Nga, mong ước ấy như ngọn lửa cứ âm ỉ chờ cơn gió mới.
Đeo bao khoai nham, ông Dị nghĩ ngợi lan man cho đến khi lên đến đỉnh Đông Chùa(29). Ngày làng còn trồng sắn, hai chú cháu đã dựng cái chòi canh lợn lòi. Ngồi trên chòi giật cho cái cần chủ bằng một cây tre mềm vắt vẻo, cần này buộc dây nối với những cần khác đung đưa kéo cả chuỗi mõ tre khua lóc cóc. Những ngày trời trong, ngồi trên chòi có thể nhìn xa đến tận biển Sầm sơn, bầu trời cao rộng như thu vào đôi mắt trong veo của đứa cháu mới lớn.
Bây giờ dân không dám lên núi làm rẫy nên Đông Chùa vắng lặng. Cỏ cây ngút ngàn với tiếng chim đét đét đét… đa… đa càng tăng thêm sự yên ắng của núi đồi. Nhưng ông Dị đâu dám nghỉ ngơi. Không tìm thấy cháu, ông lại tức tốc xuống núi. Phải tìm hiểu xem bên họ Lê tính liệu cho thằng Viết thế nào.
Trời đã nhá nhem. Một chiếc xe cút kít do một người đẩy và một người đeo cái túi đi theo ra khỏi làng. Nghe tiếng quát của Hương Kiểm, cả hai lắp bắp:
- Ông Lý sai chúng tôi đưa nồi nếp và đôi lợn sữa lên bà Huyện.
- Ông Lý đâu mà chỉ có hai đứa chúng mày.
Hai người cướp lời nhau kể lại sự tình.
Ở đình về, ông Lý gọi mấy người trong họ đến bàn mưu tính kế. Nghe ông than “Đem thằng Viết lên nộp cho Bùi San khác gì đem con lợn sữa đặt trước miệng con hùm!” mấy anh em nhà họ Lê nghĩ ngay đến chuyện lấy của thay người. Ai chứ vợ Bùi San thì cứ tiền gạo tương cho kỹ vào sẽ lần ra lối thoát. Bao nếp rồng với đôi lợn sữa này, ông Lý dặn đợi trời tối hẳn mới vòng cổng sau mang vào nhà bà Huyện. Ông Lý còn dặn cứ hứa với bà Huyện nay mai sẽ đưa lên cao ban long và gà trống thiến miễn sao bà Huyện nhận lời nói hộ với ông Huyện ém chuyện thằng Viết đi. Đã có Vũ Dinh thế thân, họ Lê đoán chiêu của đi thay người sẽ thành.
Ông Dị vẫn ngờ ngợ, của đi thay người không biết có xuôi... Ý nghĩ ấy càng làm ông hoang mang, bất giác ông gằn giọng “Ông Lý mày đi đâu?”. Hai người lại tranh nhau đáp:
- Ông Lý ra tỉnh đi tìm cậu Viết. Chúng tôi thề là đã nói thật, xin ông Hương Kiểm…
- Thôi được rồi, đi đi.
Hương ước của làng quy định từ giờ Thân, ai muốn ra vào làng Vìn phải đến điếm tuần xin thẻ. Hai anh người nhà ông Lý đã không xin thẻ lại gặp phải ông Hương Kiểm sợ nhỡ việc sẽ chết với bà Lý nên được ông Dị cho đi, họ mừng lắm. Nhưng không hề biết trong bụng Hương Kiểm cũng đang mừng. Lời thằng Viết dặn đang được chứng minh mà chạy cho thằng Viết cũng là chạy cho thằng Kiên, kết quả chưa biết đến đâu nhưng họ Nguyễn nhà ông đang được hưởng lợi!








5.
Kiên và Viết định chạy đến làng Ty thì sang cầu khỉ rồi tắt qua làng Mưng lên làng Múng về đền Mối như đã hẹn với Ngô. Nhưng sang chưa hết cầu đã đụng phải toán lính đồn Mưng(30). Hai cậu quay đầu chạy lên làng Nhiển. Cai đội hò hét đuổi theo nhưng xem chừng bọn lính rất dềnh dàng, truy đuổi mà cứ như giữ khoảng cách khác gì khuyến khích người bị đuổi chạy nhanh hơn. Đến làng Lai hai cậu rẽ trái rẽ phải mấy lần rồi xuyên qua làng Cầu vòng lên bờ con Chi giang số Tám(31).
Đền Mối ẩn sâu trong núi Nưa. Dân mấy làng vẫn đến thờ cúng nhưng bây giờ đang mùa xuống đồng làm đất cấy, đền rất vắng. Ngô tách nhóm đi nghe ngóng tình hình đã lên đây chờ. Cả một vùng rừng núi mênh mông chỉ có ba thanh niên nên thỏa sức nói cười. Ngô kể tỉ mỉ cho Kiên và Viết nghe Bùi San hùng hổ kéo lính về làng thế nào, Lý Hộ quát mắng Kiểm Dị và Trương Nẫm ra sao, lệnh Tri huyện bắt nộp Viết, Kiên và đặc biệt là bác Vũ Dinh đã bị bắt…
Cả ba rất buồn vì Vũ Dinh bị bắt. Nỗi buồn đọng trong mắt từng người. Họ không lạ gì thủ đoạn của Bùi San là sẽ lập hồ sơ cho Vũ Dinh đi an trí như một bệnh nhân tâm thần. Làm thế vừa hòng tránh phản ứng của dân lại vừa bôi nhọ được tên tuổi của một con người có học. Rồi đây, lấy ai lãnh đạo phong trào thanh niên mới nhen nhóm?
Viết đoán được những ý nghĩ của Kiên nên cười hì hì:
- Chẳng ăn thịt được bác ấy đâu mà lo. Bác đi rồi bác lại về, mình cứ theo đường hướng bác đã chỉ mà làm tới.
Rồi cậu ta lại khơi khơi:
- Mụ vợ Bùi San nghiện tiền nghiện gạo nhà tớ còn Bùi San lại sợ mụ vợ một vành, các cậu cứ yên chí sẽ không sao đâu!
Tính Viết hay lạc quan tếu. Miệng cậu ta nói thế chứ trong bụng cũng rất lo. Mọi việc lâu nay đều có bác Dinh bày cách, lúc thực hiện còn được bác theo dõi chỉ đạo, khuyến khích động viên. Bây giờ chúng bắt bác đi đày thì nhóm Thanh niên cách mạng đồng chí Hội làng Vìn như rắn mất đầu. Cậu hiểu rằng, ở cái tuổi 15,16 không có người chỉ bảo có khi việc nhỏ còn hỏng, huống chi công tác cách mạng chống lại cả một bộ máy cường quyền.
Lo thì lo thế thôi chứ đám thanh niên còn cắp sách tới trường này lại vui vẻ nô đùa được ngay. Ngô về làng Múng bảo Hứa Văn Đực tiếp tế, xế chiều Đực đội lên cỗ xôi ấp bên trên là con gà luộc. Đực cười:
- Vợ tao bảo chúng mày đáng được thưởng cỗ nhất nên có cả cái này!
 Anh rút trong bọc ra chai rượu nút lá chuối.
 Vợ chồng Đực phải làm cỗ để che mắt mọi người. Ai lên nơi thờ cúng này mà không gánh không đội thì cũng phải xách, khệ nệ lễ vật xôi gà bánh quả rất đàng hoàng. Kiên, Viết, Ngô đã đói ngấu. Sáng nay chưa kịp ăn gì đã ra đi lại phải chạy như bị ma đuổi nên bây giờ nhìn xôi rượu thịt gà khác gì voi nhìn thấy mía.
Ăn xong Ngô và Đực lượn một vòng mà chẳng gặp chốt gác nào. Người làng Vìn đổ ra đồng làm đất nên trong làng yên ắng hơn cả mọi ngày. Trong đồn Mưng vẫn vọng ra tiếng kẻng cầm canh, cậu lệ gác cửa Huyện đường vẫn ngủ gà ngủ gật… Tóm lại là, chuyện rải truyền đơn sáng nay như chưa hề xảy ra. Viết thủng thẳng:
- Nó chẳng làm gì đâu. Có bác Dinh trong tay còn lo gì quan trên hối thúc, bây giờ thì vợ chồng Bùi San ngồi chờ Lý Hộ vác của đến mời!
Cả ba người Kiên Ngô Đực không lạ gì lối nói của Viết. Cả họ Lê kỳ vọng cậu sẽ học tiếp trường tỉnh rồi vào Huế đoạt bằng tú tài đi làm Tri huyện như Bùi San. Nhưng Viết không màng, học thì học mà dừng cũng chẳng sao, ngay bây giờ mà được thoát ly đi làm công tác đoàn thể là sướng nhất. Chứng kiến cảnh bố mẹ luôn riết róng ki bo từng xu với người làm, mà người làm cho nhà Viết là ai? Họ là những bà con trong làng ngoài xã, hiền lành chất phác hết mực mà suy cho cùng, họ chỉ có mỗi một cái tội là nghèo. Viết thậm chí còn không muốn về ngôi nhà ấy nữa.
Ngô sực nhớ:
- Mẹ Kiên đang đánh vật với con trâu ở đồng Mùa Ốc. Gớm! Người cứ lút xuống bùn phải vịn vào cái cáng bừa mới theo kịp con trâu.
Đang nằm trên cỏ, Viết nhổm dậy:
- Này, tớ nghĩ ra một cách bừa rất nhàn, hay chúng mình về bừa hộ o Thường đi?
Cách của Viết là hai người đẩy một cái thuyền nan kéo bừa thay trâu, người đi sau đứng trên tấm ván cắm những cái đinh bằng gỗ to hơn răng bừa, chỉ cần đi vài lượt rạ sẽ ngập hết xuống bùn. Đực tán thành ngay:
- Nhà tớ có thuyền. Để tớ điều vợ tớ…
- Không cần đến vợ cậu đâu. Hai cậu đẩy, một cậu cầm bừa, tớ sẽ ngồi trên thuyền chỉ huy!
Mấy cậu cười đến vỡ bụng. Tưởng xắn quần xắn áo lội xuống đồng chứ ngồi trên thuyền thì nói mà làm gì. Nhưng Viết nói thế là nói thật, từ bé đến giờ cậu ta chưa hề bước chân xuống bùn, bây giờ mà xuống đồng Mùa Ốc không khéo không rút chân lên nổi. Các bạn cười, Viết cũng cười:
- Mỗ đã học môn khinh công ấy đâu!
Tối ấy cả bọn về nhà Đực. Vợ chồng Đực sống trong ngôi làng lọt sâu trong núi, đường sá đi lại rất khó khăn nên quan quân thỉnh thoảng mới về. Hương lý làng Múng cũng lù dù, ban ngày đáo qua một chút việc làng rồi tối về ôm vợ. Dân làng Múng chỉ có hai nghề là cày cấy và săn bắt, người giỏi cày cấy săn bắt nhất làng Múng cũng chỉ cỡ trung nông khá như nhà Kiên. Họ háo hức ngồi nghe Kiên và Viết nói chuyện. Cho đến đêm hôm ấy họ mới biết có một đoàn thể mang tên Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đang hoạt động nhằm mục tiêu đánh đổ bọn cướp nước là đế quốc Pháp, bọn bán nước là giai cấp phong kiến để giành lại độc lập cho dân tộc, giành lại cơm no áo ấm cho những người dân nghèo như họ.






6.
Đêm ấy, ông Dị cũng không ngủ.
Sau khi thả cho hai anh người nhà Lý Hộ đi, ông vào điếm canh(32) ngổi chờ kết quả. Vừa nghe tiếng xe cút kít, ông ra đón đường. Hai anh người nhà ông Lý kể lại tường tận, bao gạo nếp rồng với đôi lợn sữa bị bà Huyện chê ít nhưng vẫn nhận. Bà ta bảo sẽ nói với ông Huyện bỏ qua việc của Viết nhưng kèm theo điều kiện là ngày mai ông Lý phải đích thân mang cao ban long và gà thiến lên. Ông Dị như cất được gánh nặng, như vậy là bài của đi thay người đã thành công.
Ông về nhà nhưng nằm mãi không sao chợp mắt được. Cho đến lúc này vẫn chưa thấy một ông cai ông đội nào xuống đốc việc nộp người. Gà vừa gáy canh tư ông đã lách hàng rào cúc tần sang nhà anh trai. Ông bà Thường đang lụi hụi công việc buổi sáng.
- Ruộng nhà chú vừa lắm rồi đấy. Không bừa đi mai kia làng ươm nước lại thì không bừa được nữa đâu.
Bà nhắc theo bổn phận chứ ông Dị có mấy khi ra đồng. Cả nhà đã quen tính ông, ai hỏi thì vợ và lũ con đều nói bố cháu đi việc làng. Mấy mẫu ruộng phó mặc cho vợ, ngày nào ông cũng đi từ sáng cho đến tối, lắm bữa gặp đâu ăn đấy rồi ngủ luôn ở điếm canh. Bà tâm niệm nhà có hai anh em, chú ấy có nghe hay không là việc của chú ấy, mình là phận anh chị vẫn phải để mắt. Ngày cho vợ chồng ông Dị ra ở riêng, bà đã khuyên ông Thường nên chia cho em dâu những thửa ruộng dễ làm nhưng vụ nào chị cũng phải hộ hành em, người làng Vìn vẫn khen hai chị em dâu mà quý nhau chả khác gì chị em ruột.
Ông Thường hãm ấm chè xanh, bà Thường luộc nồi khoai lang, ninh nồi cám lợn. Bà dặn ông nếu có đi đâu thì nhớ bê nồi cám ra để sẵn bên chuồng con nái sề, đến bữa cái Hĩm chỉ việc đổ vào máng cho nó ăn chứ con nái sề mà đói sẽ phá chuồng ra ủi tan vườn dưa chuột. Chưa thấy Kiên về bà sốt ruột lắm. Đi đâu mà sáng bạch ra rồi cũng chưa thấy tăm thấy dạng. Vậy nhưng sợ nhắc nhiều ông cũng sốt ruột nên bà cứ để nỗi lo trong bụng, luôn tay luôn miệng làm khuây.
 Mới vắt trâu rẽ xuống bờ nấp(33), bà Thường đã thấy mấy người đang túm tụm trên thửa ruộng nhà mình. Con trai bà với cậu Viết và mấy đứa nữa đang làm gì mà buộc những cây đòn tre vào chiếc thuyền nan? Còn chưa kịp hỏi, Viết đã nhanh nhảu bảo bà:
- Hôm nay o cứ nghỉ cho khỏe, để ruộng bọn cháu bừa cho.
Bà càng không hiểu. Đến lúc nghe con trai giải thích về cách bừa thuyền, lại bảo mẹ cho trâu lên núi thả cỏ rồi về nấu cơm cho cái Hĩm đem ra thì mắt bà đã ầng ậng nước. Sao ông Thường bảo nó đến nhà bạn có việc mà mới sáng bửng tưng đã thấy lội dưới ruộng thế này? Cả đêm cứ hết khôn dồn đến dại, lúc này chưa kịp mừng đã cuống quýt vì biết Kiên là đứa háu ăn. Ngày Kiên chưa đầy năm, đi làm về bao giờ bà cũng phải chạy. Vừa ôm con vào lòng nó đã vồ tí mẹ tu ừng ực, bây giờ nó giục nấu cơm thì chắc đã đói bụng lắm rồi. Nó đói thì chắc mấy đứa kia cũng đói. Bà khẽ than “Khổ thân các con tôi” rồi tong tả vác bừa đuổi trâu ngược lại.
Ông Thường và ông Dị nhận định sau khi người nhà Lý Hộ đem gạo đem lợn lên và bà Huyện đã nhận, đến bây giờ không thấy ai hối thúc việc bắt Kiên và Viết có nghĩa là việc chạy chọt đã có kết quả. Hai người đang nói với nhau thằng Viết là đứa có thể tin được thì bà Thường đã quay về với chiếc bừa còn khô nguyên trên vai. Chả chờ chồng hỏi, bà thì thầm:
- Thằng Kiên nhà mình với mấy đứa đang bừa ngoài đồng Mùa Ốc ông ạ!
Có chút ngại vì em chồng là Hương Kiểm nên bà nhỏ giọng kể lại những gì đã thấy.
Ông Thường và ông Dị ra đến cây gạo đã thấy người làm đồng họ trâu túm tụm xem bọn Kiên, Viết hò hát đẩy thuyền. Khi dưới ruộng vẳng lên câu hò Cái thuyền thật lấy mà khơ, phải nói chuyện lờ nó mới chịu đi thì ông Thường dừng lại. Ông biết tính thằng Kiên nhà ông, ai nói tục trước mặt bố là cậu rất ngượng. Kiên không như thằng Viết nói năng tùm lum, khi nói hay vận lục bát êm như nước chảy. Nó cũng khác thằng Ngô, có lần Ngô rủ Kiên cùng mấy đứa trai tổng Cao lên Cầu Quan hò giao duyên với bọn con gái tổng Văn nhưng Kiên không đi, nói là ngại.
Dưới ruộng, giọng thằng Ngô lại ngân nga:
Bây giờ đói bụng thèm cơm
Ai cho một bát thì đơm cho đầy.
Nghe đến đói bụng thèm cơm, ông sực nhớ tới việc vợ với cái Hĩm đang nấu cơm ở nhà. Không biết hai mẹ con có nhanh tay lên không. Cỡ bốn thằng này nồi bẩy xề ra nồi ba bê vào, phải về xem không lại nấu bằng cái nồi bé tí không đủ cho bọn trẻ.
Chỉ còn mình ông Dị ra ruộng. Vừa nhìn thấy chú, Kiên lý nhí:
- Chú đi thăm đồng ạ?
- Thăm cái mả cha mày…
Ông Dị bỏ dở câu. Thực ra, trong lòng ông chỉ muốn ôm thằng cháu đích tôn của dòng họ Nguyễn nhà ông mà vỗ về mà cưng nựng nhưng chả hiểu sao ông lại văng ra một câu chửi. Văn đoán ông Dị đang rối về vụ truyền đơn nên khơi khơi tây ta lẫn lộn theo lối bồi kẻ quê để dò ý:
- Chú xem bọn cháu sáng chế ra kiểu bừa thuyền này có tuyệt đờ luych không?
- Thế này thì đã có cách trị đồng Mùa Ốc lầy thụt rồi!
Bao năm nay dân làng Vìn chỉ cho trâu bừa dập rạ rồi chờ ngấu bùn thì cấy mạ lên trên. Đồng Mùa Ốc làm chơi ăn thật như vậy nhưng cái sự lầy thụt thì chẳng ai quên. Điều ông Dị vừa nói được mọi người hưởng ứng, họ hỉ hả rủ nhau về sắm đồ ra bắt chước mấy chàng trai trẻ.
Từ sáng đến giờ Viết vẫn ngự trên thuyền với đôi giày ba ta trắng. Cô gái ruộng bên cười diễu:
- Anh Kiên ơi, gạo nhà anh năm nay sẽ trắng lắm đấy!
Bị trêu, Viết xấu hổ cởi đôi giày quăng vù ra giữa ruộng. Cậu ta bước ào xuống bùn làm cái thuyền trượt ngang khiến cả bọn nháo nhào. Viết chưa bao giờ lội ruộng, đừng nói là ruộng lầy như thửa đồng Mùa Ốc này mà ngay cả đồng màu cậu ta cũng chưa bao giờ đặt chân tới. Cú bước liều vì sỹ diện làm hai chân Viết cắm sâu xuống bùn. Ông Dị vội đỡ rồi bảo mấy người bế lên đặt lại vào thuyền.
Thuyền lướt trên lớp nước xăm xắp. Cá bị dồn đuổi bây giờ hết đường chạy cứ cuống cuồng lao ra phơi bụng trắng hếu. Phía sau tấm ván bừa có một khoảng nước kiệt, con nào con nấy bị cuốn vào cứ cố lách ngược lại roách roách. Ông Dị luôn tay nhặt cá ném vào lòng thuyền. Cá diếc, cá rô, cá thiểu(34) con nào cũng giẫy một hồi rồi nằm ngáp dưới chân Viết. Cả những con cá chuối hùng hổ lao một hồi rồi cũng phải cắm đầu vào cụm rạ. Hai bàn chân Viết dợt ra vì cá rúc. Cậu ta trêu đám con gái:
 Em ơi con đỉa nó leo
Lại đây anh bắt anh quăng vèo nó đi cho.
Mấy cô giật mình nhìn xuống đôi chân chân ngập trong bùn:
 Chân em đang ngập thế này
Nếu anh mà thích em bày ra cho.
Ứng đáp là sở trường của Viết:
 Anh đây chỉ thích khúc dò,
Em nhớ đậy kỹ kẻo đỉa bò lên thì gay.
Nam qua nữ lại chao màn sương đong đưa trên cánh đồng chiêm trũng. Cái Hĩm đã gánh cơm ra đứng trên bờ, hát:
Cơm cày cơm cấy
Ai đói thì ăn
Chẳng mâm chẳng bàn
Ngồi ngay bờ ruộng…
 Rồi nó vóng vót “Cháu mời chú, em mời các anh nghỉ tay ăn cơm ạ”.
Năm chú cháu dừng bừa tìm nơi rửa ráy. Đói mấy thì đói cũng phải rửa bớt bùn đi chứ ngập ngụa suốt từ sáng đến giờ với cái mùi rạ ngâm thum thủm xem chừng anh nào cũng khó chịu. Ông Dị sai mỗi đứa một việc, người thì chặt tay tre xọc cá, người thì vơ rơm rạ mồi lửa, chỉ một loáng khu đồng ngào ngạt mùi cá nướng. Cái Hĩm vo nắm rạ phủi lớp trấu bám bên ngoài nồi cơm ủ trong cái thúng rồi lật cái đệm lấy ra gói ớt chỉ thiên giã nhuyễn với muối rang.
- Bố mày không gửi cho chú cái gì à?
- Cái gì cơ ạ?
Nó trêu ông Dị chứ tay nó đã cầm chai rượu cũng vừa moi ra trong lớp trấu. Viết chỉ mặt ông Dị:
- Bắt quả tang Hương Kiểm tiêu thụ rượu gạo nhé!
Lệnh cấm tiêu thụ rượu gạo đã có từ nhiều năm nay. Nhà nước cấm nấu rượu để bảo hộ cho hãng Phông ten nên chỉ cho dân dùng rượu nhà máy từ Pháp đưa sang. Ai nấu rượu gạo bị phạt rất nặng, ông Dị đã bắt rất nhiều vụ nấu rượu lậu. Viết vẫn đáo để:
- Lý Hộ mà tóm được thì chỉ còn nước đệ đơn từ chức!
Cái giọng tưng tửng cứ làm như ông Lý là ông nảo ông nào chứ chẳng phải bố mình của Viết làm ông Dị ngạc nhiên. Hình như cậu ấm này cũng không ưa gì cái chức Lý trưởng? Thông minh, nhanh nhẹn, không mang nặng tư tưởng gia đình họ tộc, Viết là kiểu thanh niên mới, rất đáng khâm phục. Hai hôm nay ông Dị vẫn quay đi quay lại ý nghĩ Viết khác bố rất xa, nếu tận dụng sự khác biệt này mà chơi Lý Hộ thì cả họ Lê có chạy đằng giời. Ý nghĩ ấy dường như đã xóa đi cái khoảng cách mà ông dè chừng, sự dè chừng của con người vốn tị hiềm với cả họ nhà Lê Viết.
Viết lại bỗ bã:
- Chú biết không. Cái đận chú mới ở Mác xây về, bọn cháu đã chơi cho Hội Ngũ hương làng mình một trận bí tỉ. Thịt mỡ thái rối, mà là thịt mỡ sống còn nguyên khổ nhá, trộn với bánh đa, cùi dừa, năm cụ hương cứ chén chân voi mà xăng phuôc xăng(35). Ra cuộc họp mà cụ nào cũng nghẻo cổ ngủ gật, đến khi tỉnh dậy thì Hội đồng Quan viên đã bầu xong chức Hương Kiểm cho chú rồi. Ông Kiểm cựu hôm ấy bị mất chức đã phát khùng chửi cả hội đồng quan viên, chú nhớ không?
Ông Dị quên sao được. Sau hôm ấy người anh họ Vũ Dinh đã khuyên ông đã có chân trong hội đồng hương chính thì nên tận dụng chức vụ mà bênh vực dân nghèo. Chuyện Viết kể càng làm ông thương người anh họ:
- Sáng hôm qua lính huyện xuống bắt bác Dinh rồi!
Ai cũng biết tin này nhưng cả bọn lại lặng đi!






7.
Nhóm Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội thảo luận sôi nổi trên chiếc thuyền nan cắm sào giữa cánh đồng Mùa Ốc. Họ đang lên kế hoạch đón cán bộ Xứ Ủy về lãnh đạo vùng Nam Nưa sơn. Mấy năm nay họ vẫn phải hoạt động với các hình thức học chữ quốc ngữ, đọc sách báo, vận động bà con tham gia Hội ái hữu, Hội tương tế… theo danh nghĩa Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội nên rất khao khát có người của Đảng về trực tiếp lãnh đạo.
Nước vỗ mạn thuyền lách chách. Gió Ngàn Nưa buốt tựa kim châm. Chỉ có ông trăng xanh xao trong đêm tháng Mười và chùm sao Thần nông nghiêng xuống cùng ba người Dinh, Kiên, Viết.
Vũ Dinh thoát tù Lao bảo(37) đã bươn rừng về ngay quê nhà. Hương lý làng Vìn quản thúc ông rất chặt. Chúng bắt mỗi tháng phải trình diện ba lần, đi đâu ra khỏi làng hay có người lạ đến nhà phải trình báo, đêm ngày đều có tuần đinh rình rập quanh nhà. Hoạt động của ông gặp rất nhiều khó khăn. Cái thế công khai mà không có tự do chông chênh như vậy nhưng ông vẫn tích cực tập hợp những đồng chí cũ tiếp tục xây dựng cơ sở.  
Hai người đồng chí làng Vìn là Kiên và Viết được giác ngộ từ thời Mặt trận bình dân(38). Họ đã mày mò hoạt động giữ phong trào trong suốt thời gian Vũ Dinh bị đi đày, nay nghe tin Đảng cử cán bộ về thì rất phấn khởi. Niềm phấn khởi ấy như ngọn gió thổi bùng lên nhiệt huyết tuổi trẻ, hai người hạ quyết tâm cùng với Vũ Dinh lập cơ sở ngay tại cánh đồng Mùa Ốc này.
Cánh đồng quanh năm ngập nước. Con đường từ làng ra đồng phải đi qua một bãi tha ma nên rất vắng người. Muốn lên núi có thể đi theo con khe hai bên dứa dại mọc um tùm. Dứa lâu năm đã thành cổ thụ vươn ra lắm cành nhiều nhánh gai lá sắc nhọn, người không quen rất khó tiếp cận. Trước khi vào con khe phải đi thuyền qua cánh đồng nước mênh mông, ban đêm chỉ cần ngồi thấp xuống nhìn là là mặt nước sẽ quan sát thấy mọi động tĩnh. Đặt địa điểm liên lạc tại đây có nhiều thuận lợi trong việc giữ bí mật, che giấu cũng tốt mà vạn nhất nếu có động cứ lẩn vào Khe Dứa rồi lần lên núi vào đại ngàn Nưa sơn. Rừng núi mênh mông, phía bên kia núi bà con dân tộc Mường, Lô Lô rất tốt bụng. Còn một vấn đề nữa, đấy là chuyện kinh tài. Đón cán bộ về lấy gì nuôi cán bộ? Gia đình ông Dinh chẳng dư giả, nhà Viết giàu nhà Kiên cũng khá nhưng hai cậu đều không phải chủ gia đình. Nhóm Thanh niên cách mạng đồng chí Hội quyết tâm gây một cơ sở nuôi vịt đẻ. Khi bàn luận, cả nhóm nhất trí phải tìm cho được một người thạo nghề, chịu đựng được khổ cực với cuộc sống giữa một bên là đồng nước mênh mông, một bên là bãi tha ma. Nếu không may sa vào tay Bùi San phải có gan chịu đòn không phản bội xưng khai. Tóm lại, người cần chọn phải có nhiệt huyết với phong trào. Tiền bán trứng sẽ trích ra một phần làm quỹ. Ba người nhắm vào anh Bùi làng Ngọ Vực, Vũ Dinh nhận phần sang vận động anh đưa đàn vịt đến bãi Mùa Ốc cắm lều.
Sau mùa gặt, gốc rạ nào cũng đâm chét(39), những chét lúa này lên xanh rồi đơm đòng, trổ bông, làm hạt. Làng Vìn gọi là lúa rài. Lúa rài hạt thưa nhưng rất chắc đã giúp dân no lòng những ngày giáp hạt(40) nên làng cấm đánh riu(41), đánh dậm, đặc biệt cấm thả vịt bầy. Bảo nông tri điền(42) bắt được ai xâm phạm thì phạt rất nặng nên chẳng người nào dám héo lánh. Sau vụ thu hoạch lúa rài, làng sẽ tháo đồng cho mọi người bắt cá, bắt tôm. Cánh đồng là nơi đón nước trong núi chảy ra nên không bao giờ cạn đã nuôi dưỡng cá tôm sinh sôi năm này qua năm khác. Mỗi đợt tháo đồng là một dịp chuần bị thực phẩm cho mùa cày mùa cấy, người yếu kiếm giỏ ốc giỏ cua nắm tép nắm tôm, người khỏe mạnh có lưới có dậm thu được hàng gánh phải phơi khô, làm mắm...
Như đã nói, nhóm Thanh niên cách mạng đồng chí Hội đang bí về tài chính. Lâu nay hoạt động bằng kinh phí do Kiên và Viết lấy của nhà nhưng cách này rất nhiêu khê. Người ta thấy Kiên dẫn người về nhà kéo đi một vài xe thóc thì cho là anh đánh bạc bị thua phải kéo thóc đi đạy nợ. Kiên mặc người ta, ai muốn nói thế nào thì nói nhưng anh không nỡ giấu bố. Vậy nên ông Thường lại mang tiếng không dạy được con!
Phong trào càng lên tài chính của Hội càng trở thành vấn đề. Anh Bùi Ngọ vực là người nuôi vịt lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, mát tay có tiếng. Nghe lời Vũ Dinh, anh đã đưa đàn vịt của mình sang bãi Mùa Ốc cắm lều. Đàn vịt đẻ trứng rất đều. Chỉ có điều tiền bán trứng phải chi tiêu cho nhiều việc nên nhiều lúc hết cả tiền đong thóc cho vịt ăn. Mấy anh em nhìn cánh đồng lúa rài vàng ửng, cá đớp um ủm, tôm búng càng tanh tách mà thèm. Nhưng muốn cho vịt xuống đồng phải có giấy phép của Lý trưởng. Làm thế nào để lấy được giấy phép của Lý Hộ?
Sau hôm bừa thuyền, bếp Dị tìm ra cái gót A sin của Lý Hộ chính là anh con trai, nay lại phát hiện ra một điểm yếu nữa của ông ta là rất sợ ma. Chuyện cũng từ cậu Viết mà ra. Một lần, Viết bố trí lấy thóc nhà mình, anh em đóng bao từ lúc Lê Hộ mới ra khỏi nhà. Đang xúc thóc thì có ai đó hỏi nhỡ bố cậu về thì làm sao? Bí quá, Viết lấy cái áo trắng luồn vào cây sào treo lên ngọn tre la đà đầu ngõ. Khi đã tàn canh xóc đĩa, Lý Hộ lọc cọc về đến bờ ao thì giật mình vì nhìn thấy một bóng người mặc áo trắng dang rộng hai tay vút lên hạ xuống liệng lờ. Ông ta hết hồn chạy văng cả guốc. Khi bọn Viết chở thóc đi rồi, vợ ông Lý ra điếm canh dỗ thế nào ông Lý cũng không chịu về…
Mấy năm trước, ông Dị luôn tìm cách “chơi” Lý Hộ chỉ vì cái tính cương còng của anh bếp về làng nhưng nay đã được ông Dinh mở ra một tầm nhìn mới. Con đường anh họ Vũ Dinh và Kiên, Viết đang đi để giành độc lập cho cả dân tộc mang nghĩa khí ngời ngời mà sao ông lại mãi quẩn quanh với những đố kỵ họ Lê họ Nguyễn. Giữa mình với Lý Hộ chẳng có gì đáng thù đáng oán sao lại tìm cách “chơi” nhau. Một nhận thức mới, một niềm tin mới đã đưa ông tới với đoàn thể và qua những hoạt động đoàn thể, ông đã thành con người khác.
Kế hoạch xin giấy phép thả vịt xuống đồng do ông đưa ra. Theo kế hoạch này thì phải có một người trốn dưới gầm bàn thờ nhà ông Lý giả làm ma. Còn ai làm việc này tốt hơn Viết nhưng Viết không thể. Sau lần ngồi lên đầu Thành hoàng anh em đã rút kinh nghiệm với nhau, không thể chống thần quyền bằng cách dẫm đạp lên thuần phong, hơn nữa rung lắc bàn thờ nhà mình nhỡ bố Viết yếu tim lăn ra đấy thì sao. Viết đề nghị mình sẽ lựa thời cơ lấy trộm con dấu mạo chữ ký. Nhưng Vũ Dinh không đồng ý vì cách làm cách làm ấy không đàng hoàng. Thực ra, ông còn phân vân một chuyện nữa. Lúa rài là nguồn bổ sung lương thực lúc tháng ba ngày tám cho nhà nghèo, đã đành làng có đến sáu cánh đồng nhưng bớt đi một cánh đồng là bớt một phần cứu đói, lòng ông không đang.
Chuyện còn chưa đâu vào đâu thì Vũ Dinh bị Bùi San bắt đi tập trung cải huấn. Bí thóc ăn cho đàn vịt, Bùi phải đánh liều. Lọc cọc cây gậy đánh chó, Bùi lòng khòng trong bộ quần áo ngấm phèn lừ lừ đi vào nhà ông Lý. Mỗi bước lại phát ra tiếng lọc cọc, lào xào, ông Lý thoạt nghe mà đã thấy ớn. Lũ chó nhà ông Lý dữ có tiếng mà hôm nay cũng phải chui vào xó nằm rít ư ử. Bây giờ thì Bùi đã đứng trước cửa. Mấy ngón chân củ gừng không ngừng day xuống mặt sàn gạch Bát tràng. Những ngón tay mốc meo cũng xoắn mãi vào nhau, tiếng khục khục cứ liên tục phát ra từ cái đống lù lù không khác gì con ma dưới mả mới đội lên.
Lý Hộ ngồi chết trân trên tràng kỷ nhưng giọng nói vẫn rất sang:
 - Có việc gì đấy?
Bùi lào xào bước qua ngạch cửa ngồi ghé xuống bộ phản kéo ống quần lên gãi ống đồng sồn sột. Hai bắp chân vừa to vừa mốc như hai khúc lưng con trăn gió làm ông Lý ngại quá. Bất giác ông lại dịch thêm vào chút nữa. Những tia nắng quái soi qua những tàu dừa đung đưa theo gió chiếu vào nhà lay lắc cái bóng của Bùi lúc dài lúc ngắn lướt đi lướt lại trên những hoành phi câu đối làm ông Lý không dám nhìn. 
- Xin cụ cho con được cắm cái lều vịt ở doi đất chỗ bãi tha ma Mùa Ốc ạ!
Lý Hộ càng chết trân:
- Ơ…cái thằng này…tao nghe nói chúng mày đã cắm lều rồi kia mà?
Bùi móc dưới áo ra xâu tiền đặt đánh kịch lên mặt bàn rồi vuốt tờ đơn chìa ra trước mặt Lý Hộ:
- Xin cụ cho cái giấy thì vịt con mới dám xuống đồng, cụ dạy bao nhiêu con cũng xin vâng!
Ông Lý quát:
- Dạy dạy cái gì…
- Thưa cụ, cũng là cái sự đói thì đầu gối phải bò chứ nằm chung với ma Mùa Ốc con cũng sợ lắm. Ngày con còn đi bốc mả thuê, vừa cậy ván thiên lên đã thấy cá trê…
Chuyện bốc mả thấy cá trê thì Lý Hộ đã dính. Đấy là đám bốc mả ông bố vợ, không đi không được. Bố vợ ông chôn ở bìa đồng nước ngập lưng quan tài, cá trê ngoài đồng khoét hang chui vào làm tổ. Rồi chúng sinh con đẻ cái ba năm thành bầy nhung nhúc. Dưới ánh đuốc chập chờn, con nào con nấy dương râu chạy tứ tung làm những khúc xương va vào nhau lục cục. Một con không biết làm sao lại rúc đầu vào cái hộp sọ, vướng hai cái ngạnh không làm sao thoát ra được nên cuống quýt dẫy đến nỗi cả cá cả sọ bay tót lên bờ. Hai hố mắt đen ngòm với hàm răng nhe ra trên cái hộp sọ tròn hếu cứ nhẩy tưng tưng nom mà chết khiếp. Lê Hộ cắm đầu chạy về nhà trùm chăn. Nằm mấy ngày mà người lúc nào cũng ngây ngấy, mở mắt thì thấy cái sọ nhẩy tưng tưng, lịm ngủ lại mơ thấy cá trê rúc vào tai vào mũi.
Bùi cứ kể chuyện mình đi bốc mả thuê, hai cái răng thỏ vàng ệnh như răng cải mả bập lên bập xuống. Cậu ta ghé sát vào ông Hộ:
- Cụ bận việc quan chả mấy khi bước chân đến bãi Mùa Ốc chứ ngoài ấy ma rì rầm thâu đêm…
Muốn quát cho thằng cha chăn vịt vô duyên một trận rồi hô tuần đến trốc cổ hắn đi nhưng ông Hộ chẳng còn hơi. Càng nhìn Bùi ông lại càng sợ, cái loại dám nằm với ma này lại còn nghe được cả tiếng ma rì rầm chắc dám bóp cổ mình lắm. Lá dừa cứ lia đi lia lại những tia nắng cuối ngày. Bùi móc trong bọc xâu tiền thứ hai đặt lên bàn. Lạ thay, tiếng kịch lần này lại làm ông Lý ngồi ngay ngắn. Hình như xâu tiền đã bật vào công tắc của một giác quan riêng trong con người Lê Hộ.
Dù sao, Lê Hộ vẫn là dòng dõi mấy đời làm Lý trưởng. Ông ta tính trong đầu rất nhanh, lúa rài lúa rặt thì chỉ có đám cố kít đãi cứt chó lấy vỏ khoai lang đi vơ chứ nhà này có ai muốn bước chân xuống cái nơi đỉa như trấu ấy! Cho nó thả vịt thu vài quan chè nước cho làng thì chắc Kiểm Dị, Vũ Dinh chẳng nói được vào đâu. Mà cái thằng phèn mốc này không biết còn ám mình đến bao giờ nữa. Xéo đi cho rồi, Lý Hộ tặc lưỡi ký xoẹt vào tờ giấy. Tiện tay lấy triện ra đóng, ông ta vơ luôn hai xâu tiền để trên mặt bàn bỏ vào tráp.
Bùi cầm tờ giấy vừa lạy vừa bước lùi ra cửa. Khi đã khuất dạng thì tiếng Kiên đon đả từ ngoài cổng:
- Cụ Lý có nhà không đới?
- Ai như tiếng anh Bản. Mời anh vào xơi nước…
Ông ta mời chào ngọt xớt nhưng bụng lại thêm lo. Quan viên làng Vìn vừa phế thằng cháu ông vì nó lấy bậy mấy quan tiền quỹ ra chơi xóc đĩa, người thay cháu ông chính là tân Hương Bản Nguyễn Kiên đây. Vừa bị hành bởi con ma sống là Bùi, giờ lại bị thằng cháu của đối thủ là Kiên áp đáo, không biết còn chuyện gì xảy ra trong cái buổi chiều liêu trai này nữa.
- Anh Bản có việc gì thế?
Kiên nói rằng tiện đường ghé vào thăm ông Lý xem ông Lý có được mạnh khỏe không chứ chả có việc gì. Lý Hộ lạ gì Kiên với Viết cùng một giuộc. Không chừng cái vụ giấy xin thả vịt đồng Mùa Ốc vừa rồi cũng là do hai đứa chúng bày ra. Tao thì… Nghĩ thế thôi chứ có nhử kẹo ông cũng không dám đánh đòn thằng con. Ông sợ vợ vô kể, vợ ông mới cự ông một trận vì con ông dọa sẽ rủ cái Trâm làng Mai đi Tân Thế giới. Cái tội bà quy cho ông là chỉ mới nhận thông báo của Tri huyện về việc nhà nước có chương trình bảo hộ cho dân An nam sang sinh sống bên Tân thế giới, đã rõ nếp tẻ thế nào mà cũng nói cho con để nó sinh ra ý định bỏ đi!
Ngồi nghĩ lan man quên cả mời khách uống trà nhưng khi Kiên chào về, Lê Hộ lại giữ. Người ông ngây ngấy sốt. Bản Kiên mà về rồi còn một mình ngồi đây có mà chết… buồn. Lý Hộ chèo kéo:
- Anh thư thả ngồi chơi thêm, để tôi phà ấm trà mới!






8.
Kế hoạch đón đồng chí Bản Thịnh, phái viên Xứ ủy, về lều vịt Mùa Ốc để chỉ đạo phong trào vùng Nam Nưa sơn được giao cho Kiên.
Cái Hĩm dùng gáo dừa chà cho những hạt vừng giắt kỹ vào kẽ nan hai cái thúng. Hai chiếc quang, chiếc đòn gánh và cái đệm lác cũng được ngâm nước phơi khô cho hệt đồ nghề của những người đi buôn vừng lâu năm. Tảng sáng, Kiên quẩy gánh vừng ngược lên Rọc Mối, băng qua cánh đồng Lượng Định, xuôi theo bờ con chi giang số Năm rồi về chợ Voi giáp giới giữa hai huyện Đông sơn và Quảng xương.
Mặt trời lên cao Kiên mới đến điểm hẹn. Một người mặc bà ba đi qua để rơi mảnh giấy vo tròn. Tờ giấy ghi mấy chữ “Canh hai- ngôi nhà có cây dừa ba thân bìa đồng Làng Giềng- Bản Thịnh”. Đấy là thời gian, địa điểm và tên người Kiên phải đón. Anh đọc lại một lần nữa rồi bật lửa đốt mảnh giấy. Từ giờ đến canh một vị chi còn mười hai tiếng đồng hồ, theo bờ nông giang xuôi ba cây số rồi tắt đồng vào làng Giềng, chắc sẽ ổn thôi. Anh nhẩm tính rồi lúp xúp gánh vừng vào Chợ Voi, tiếng rao lẫn với tiếng những người bán hàng rong đã đến tai chủ hiệu Phúc Hưng:
- Vờng ơi, vờng
Phúc Hưng là người Hoa kiều. Như mọi Hoa kiều khác, ông được người bản địa gọi là chú khách. Chú khách bốc nắm vừng lên xem, vừa thổi phù phù vừa không ngớt chê bai:
- Lếp quá, lếp quá à…
Kiên biết các chú khách hay chê quá lời nhưng nếu cất gánh lên sẽ bị giữ lại ngay. Anh giả vờ làm cao:
- Chẳng ai có vừng đẹp thế này đâu. Chú không mua để cháu đem sang chú Đông Ký…
Chú khách túm một tao quang, giả lả:
- Mua chớ, mua chớ. Vào, vào… uống lước cốc mễ ăn pánh pao.
Kiên đoán chú khách sẽ mua vừng và sẽ còn nhờ mình làm một việc gì đấy để tính công vào khoản nước cốc mễ(43) với bánh bao kia. Đang không biết đi đâu cho đến tối, anh tán:
- Mua đi cháu bán rẻ cho. Vừng loại một, chú bán lại cho mấy hiệu kia lãi mấy giá, thích không?
Phúc Hưng không giấu vẻ thích thú, chiếc răng vàng bên khóe cứ lấp lóe liên tục. Không có người giúp việc, chú tự cân rồi lách cách bàn tính hai ba lần mới xớt từng đồng lên mặt quầy để trả triền. Kiên phì cười, có mấy đồng nhẩm cũng ra mà cứ dồi dắng mãi.
Việc mua bán đã xong, chú khách đem ra mấy cái bánh bao với đĩa củ cải muối rồi lật vung cái chảo trên bếp lò múc ra hai tô cháo loãng nấu bằng gạo tẻ mà chú gọi là nước cốc mễ. Kiên đang đói, anh tì tì hết đĩa bánh rồi húp cháo thay nước uống.
- Có ti tâu khôông? Thái giúp bao thên nên kện à. Trưa ăn cơm mà…
Kiên chửi thầm cha bố bọn kẹt xỉn nhưng vẫn vui vẻ nhận lời. Thấy anh lầm bầm, chú khách tưởng anh từ chối nên vội nói tiếp:
- Hết hai pao lày là ăn cơm với hai xu… ay dà
Kiên ngồi vào bắt dao cầu thái thiên niên kiện thoăn thoắt.




Làng Giềng đang đỏ đèn ăn cơm. Nhà nông luật quật suốt ngày nên bữa tối ăn rất muộn. Già trẻ lớn bé xúm quanh cái chõng tre với ngọn đèn Hoa kỳ thắp bằng dầu hỏa, vừa ăn vừa nghe phân phó công việc ngày mai. Chó nhà nào cũng chầu chực quanh mâm chờ chủ ăn xong đến lượt mình nên đường làng vắng ngắt.
Kiên lần qua cánh đồng vào gia đình cơ sở. Nhận được tín hiệu, chủ nhà dẫn Kiên lên cái gác đựng thóc trên nóc chuồng trâu(44). Nhà kho tối um nhưng người bên trong đã chủ động chào:
- Tôi là Bản Thịnh, chào đồng chí.
- Chào đồng chí, tôi là Bản Kiên.
Chủ nhà bật lửa thắp lên ngọn đèn dầu. Hai người mừng rỡ ôm nhau. Bản Thịnh hỏi:
- Anh Bản đi đường có gặp khó khăn gì không?
- Ổn cả ạ.
Rồi Kiên nói qua về tình hình vùng Nam Nưa sơn. Bản Thịnh nghe rất chăm chú, thỉnh thoảng lại điểm bằng những cái gật đầu. Ông rất vui khi biết nhóm Vũ Dinh đã chuẩn bị cơ sở Mùa Ốc khá công phu và rất phù hợp với công tác hoạt động bí mật.
- Anh Bản định về thế nào? Bản Thịnh hỏi.
- Chúng ta sẽ men đồng qua Quảng xương, Đông sơn vòng lên thượng lưu sông Hoàng Nghiêu. Ở đây đã có cơ sở chuẩn bị thuyền nan, qua sông là vào núi Nưa. Từ núi Nưa theo Khe Dứa về lều vịt Mùa Ốc. Bác Vũ Dinh đã bố trí người đón tại đền Mối.
Tiếng chó dậy lên từ xóm ngoài rồi lan dần vào xóm trong. Có tiếng giày tụi lính trên đường làng. Chủ nhà bò lên cái thang tre nói nhỏ:
- Có động. Chạy qua bờ ao, ra đồng…
Bản Thịnh vơ tay nải, nói nhanh:
- Cứ tùy nghi mà về. Tôi là người Thọ Xuân nên rất thuộc đường, đồng chí yên tâm.
Rồi ông lách ván thưng lẩn vào đêm tối.




Kiên nhổ gốc rạ ném xuống mặt ao, tiếng lõm tõm đã hướng đàn chó sủa về phía ấy. Bọn lính cũng hô nhau lao về phía ấy, đèn pin loang loáng quét khắp nơi nhưng xem chừng không ai muốn lội xuống nước.
Kiên ngồi thụp xuống chân bụi tre. Sợ để lại lốt chân trên mặt ruộng, anh men theo bờ nhưng bàn chân dính bùn liên tục bị trượt. Bùn se dẻo quánh cứ như muốn giữ chân lại, mỗi lần rút chân lên là một lần phát ra tiếng động tố cáo hướng đi. Đêm đầy sao. Mặt ruộng chụm đầy đụn rạ, đụn nào cũng giống đụn nào, đều đặn, lúp xúp, bất tận trên cánh đồng mới gặt. Anh chui vào một đụn ngồi nín hơi ngóng theo tiếng động của bọn lính.
Những con đỉa đói từ những hang hốc dưới bùn lần đến bám vào hai bàn chân trần của Kiên chích đau như lách cứa. Chỉ còn cách nhổ nước bọt ra tay bôi vào nơi đỉa cắn mà gỡ chúng ra. Tiếng chó phía làng đã lặng dần. Anh ló đầu, quan sát. Đêm đã nhạt, trên trời chỉ còn vì sao mai nhấp nháy, dưới đất có một vệt đèn ô tô phía xa. Anh đoán mình đang ở gần ngã ba Vua bà, nơi gặp nhau của sông Lãng và sông Yên, gần đây có làng Đạt tam nổi tiếng nghề rèn các anh đang tìm cách gây sơ sở. Không thể mạo hiểm vào một nơi như thế nên anh quyết định đi lên hướng Bắc vượt quốc lộ 45 rồi tìm cách qua sông Hoàng vào núi Hồi Cù.
Vừa bước lên đường đã thấy một người tiến lại phía mình. Nhận ra bộ bà ba và cái mũ phớt(45) trên đầu anh ta, Kiên vụt nhanh sang đường rồi nhào xuống cánh ruộng nước chạy về phía bờ sông. Dự tính qua hết cánh ruộng anh sẽ lao xuống dòng sông lặn sang bên kia nhưng thật bất ngờ, người đội mũ phớt đã đứng lại ở vệ đường.
Từ bờ đê đến mặt nước sông Hoàng là cả một quãng sình. Màu xanh bên trên quãng sình chỉ là những mảng cỏ nổi phập phều, cỏ lâu năm đan kết với nhau, bên dưới mảng có là bùn lầy có chỗ ngập đầu. Vừa nhẩy xuống, hai chân Kim đã lún sâu cho đến khi đám cỏ phập phều ngập đến ngang ngực. Kiên dãy dụa mãi mới quay được vào bờ, những mảng có cứ dập dềnh như sóng lượn, mấy con đưm đưm(46) bay lên chao chác. Kiên không sao nén được cảm giác ghê rợn. Lớn lên từ vùng chiêm trũng, anh biết rất rõ ở đâu có đưm đưm là ở đó có loài rắn hổ cực độc đến tìm món khoái khẩu. May cú nhẩy vừa rồi đã không dẫm trúng con nào.
Không còn nhìn thấy người đội mũ phớt, anh yên chí đi theo bờ đê vào ngôi làng trước mặt. Định kiếm thuyền sang sông bỗng anh nghe có tiếng con gái rất nhẹ:
- Anh gì ơi, chui qua bụi tre nhanh lên!
Người đội mũ phớt đã xuất hiện phía khúc đường cong. Anh ta đi xe đạp, theo sát anh ta là một người nữa, cũng đi xe đạp. Hai cái xe lao phăng phăng trên con đương đá dăm. Không còn chọn lựa nào khác, anh chui qua bụi tre gai lao về phía cô gái đang cầm sào vớt bèo tây dưới cái hộc ven chân đê. Cô ra hiệu cho anh lặn xuống bên dưới lớp bèo đan kín mặt nước. Chưa nhìn rõ mặt nhưng anh tin người con gái này có ý cứu mình, anh lặn ra giữa hộc rồi nhô mũi lên một cụm bèo.
Hai người đội mũ phớt phanh xe trước cô gái, quát:
- Có nhìn thấy một thằng vừa chạy qua đây không?
- Thằng nào kia ạ? Cô gái hỏi lại.
- Một thằng cao to, mặc áo gụ…
- Có, kia kìa.
Cô gái chỉ tay về phía mấy người mặc áo gụ đang trên đường ra ruộng. Hai người đội mũ phớt vứt xe, đuổi theo.
Kiên nghe tiếng cô gái:
- Anh gì ơi, qua bên ao kia mà đánh cá với bố em.
Cô gái bảo sao làm vậy, anh lách qua những mảng bèo trườn qua cái bờ ao có một ông già đang chuần bị thả vó.
- Thằng hai đánh nơm dọc bờ… Ông hếch cằm cho Kiên rồi khoát tay về phía lùm sung nước rủ xuống mặt ao.
Có một thanh niên đang cởi bộ đồ mặc trên người vắt lên bụi chuối rồi cũng lội xuống ao. Kiên đã hiểu, ba bố con ông già bên bờ sông Hoàng đang tìm cách cứu mình nên yên tâm lội dọc bờ rồi khuất hẳn vào lùm sung nước.
Hai người đội mũ phớt bị mấy anh nông dân diễu cợt:
- Mặc áo gụ hả? Có ba thằng mặc áo gụ đây!
Cả ba trở cán cuốc sừng sộ với hai người đội mũ phớt:
- Các ông bảo nó vừa chạy qua ruộng nước kia thì quần áo nó phải ướt chứ. Xem quần áo chúng tôi có ai dính giọt nước nào không?
Một ông còn tụt quần xuống:
- Đến cái mả bố chúng mày còn khô nguyên đây này!
Hai người đội mũ phớt biết đã gặp phải đám bảy nghề(47) chùa Đào nên tẽn tò quay lại nơi cô gái vớt bèo.
- Nó chỉ chạy đến đây là khuất dạng. Ngoài kia là bãi phập phều, có họa mọc cánh mới bay sang sông được.
- Bố ơi, có người trêu con! Cô gái kêu ầm lên - Cái đồ bốn mắt, đừng có thấy người ta…
Ông già cầm con dao lao tới:
- Đứa nào trêu vào con tao thì hãy nhìn lưỡi con dao sáu này!
Chừng như nhận ra người quen, ông già đổi giọng:
- Ôi! Tưởng ai, hóa ra thầy đội, thầy xuống mua cá à?
Ông già cứ dài chuyện cá trắm cá trôi cho cô con gái đi vào trong vườn. Trong lúc ấy, ở bên kia, anh con ghé tai Kiên:
- Vòng ra vườn chuối lấy bộ quần áo khô của tôi mà thay rồi lần lên bãi tha ma mà qua sông. Yên chí, chỗ này sung nước rất dày, đứng chỗ mấy người kia có nhìn sang bên này cũng không thấy gì đâu!
Kiên làm theo những điều chỉ bảo của anh ta rồi qua sông Hoàng về chùa Vĩnh Thái.





9.
 Bản Thịnh đã hoạt động ở Quảng xương, Đông sơn, Nông cống nhiều năm lại là người sinh trưởng ở Thọ Xuân nên rất thạo đường ngang ngõ tắt vùng quê này. Nhờ Kiên đánh lạc hướng, ông đã thoát ra khỏi làng Giềng rồi nhanh chóng theo những bờ nấp băng qua cánh đồng đến điểm hẹn. Thuyền đã chờ sẵn, ông qua sông Hoàng Nghiêu về núi Sỏi rồi vào núi Nưa. Tảng sáng hôm sau ông đã về đến lều vịt Mùa Ốc.
Phiên họp đầu tiên của Bản Thịnh, người đại diện cho Xứ ủy, với Nhóm Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội có ông Dinh, Kiên, Viết và Ngô. Bùi quen canh vịt ban đêm nên tai mắt rất tinh được phân công làm nhiệm vụ cảnh giới. Đón được Bản Thinh về cơ sở Mùa Ốc, anh em rất phấn khởi. Ông Dinh báo cáo rất kỹ tình hình vùng Đông Nam Nưa sơn. Bản Thịnh nhận định:  
- Khó khăn lớn nhất của phong trào Đông Nam Nưa sơn là chưa có tổ chức cơ sở Đảng làm hạt nhân lãnh đạo. Cần ba đảng viên để thành lập chi bộ nhưng nay mới chỉ có mình tôi, theo điều lệ là chưa đủ diều kiện tối thiểu. Chúng ta không thể làm khác với điều lệ Đảng, việc thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Đông Nam Nưa sơn lần này đành phải gác lại. Và do vậy, việc kết nạp đảng viên mới cũng không thể tiến hành. Thông báo để các đồng chí biết, phong trào đang phát triển rất mạnh ở khắp nơi đòi hỏi cán bộ đảng viên đi cơ sở rất nhiều, việc điều động người về cho đủ số lượng để thành lập chi bộ gặp rất nhiều khó khăn. Xứ Ủy biết nhiều đồng chí của nhóm Thanh niên cách mạng đồng chí Hội làng Vìn đã hoạt động bền bỉ kiên trung trong nhiều năm, đã có đủ điều kiện về năng lực và phẩm chất cách mạng để trở thành Đảng viên nhưng do khó khăn khách quan này, đề nghị anh em thấu hiểu và chấp hành vô điều kiện nguyên tắc tổ chức. Về nhiệm vụ trước mắt, Xứ ủy đề nghị các đồng chí tiếp tục tăng cường hoạt động, lấy tuyên truyền sâu rộng các chủ trương phản đế phản phong kết hợp với việc biểu dương lực lượng bằng nhiều hình thức như biểu tình, thị uy, mit tinh, tuần hành để vừa tập dượt cho quần chúng vừa gây thanh thế cho cách mạng. Nói chung, cần sáng tạo thật nhiều hình thức để thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia. Muốn vậy, cần làm cho dân thấy rõ bản chất của bọn đế quốc thực dân và phong kiến chúa đất, chống đi lính, đi phu, chống nộp thuế, đồng thời nâng cao lòng tự tôn dân tộc, tin tưởng vào sực mạnh đoàn kết của những người lao động mà dũng cảm vùng lên…
Những người trai làng Vìn đã từ lâu mong được đứng trong đội ngũ của Đảng tiên phong nhưng bây giờ mới được tiếp cận với những nguyên lý cơ bản về công tác xây dựng đảng. Họ sẵn sàng chấp nhận và càng tin tưởng vào sự đề cao nguyên tắc tổ chức xuất phát từ sự bảo đảm trong sạch đội ngũ. Họ hiểu, chỉ có như vậy Đảng mới vững mạnh, mới lấy được niềm tin của nhân dân, mới đủ khả năng dẫn dắt dân tộc đi trên con đường giải phóng đầy khó khăn gian khổ.
Làm việc tại cơ sở Mùa Ốc xong, Bản Thịnh vào Nông trường Yên Mỹ. Đây là nơi công nhân bị bóc lột thậm tệ, Vũ Dinh đã vào mấy lần đều bị bật ra. Để có vỏ bọc, Bản Thịnh được tổ chức bố trí làm Cai, có điều kiện gần gũi với anh chị em công nhân nông nghiệp tại nơi mà bộ máy cai trị của chính quyền thực dân phong kiến được tổ chức khá vũng mạnh.
Điền chủ Gôchiê, sau nhiều năm đầu tư nay cà phê của hai đồn điền Ngọc Chẩm và Yên Mỹ đang cho thu hoạch. Theo chân Gôchiê, Đờ Ôn và một số điền chủ khác cũng đang mở rộng đồn điền về phía nam Yên Mỹ. Bộ máy cai trị ở Tổng Lạc thiện này luôn luôn được chú ý củng cố, nhà thờ Thái yên mới được xây dựng, cha Sinh Tân luôn sử dụng những buổi lễ cho việc ru ngủ dân chúng. Khi nghe cha giảng Đức chúa Trời đã an bài mọi sự vật trên trái đất này thì công nhân, nông dân đâu còn nhận ra các mâu thuẫn xã hội, lại càng không nhận thức nổi quy luật có áp bức là có đấu tranh.
 Vào những năm đầu thế kỷ hai mươi, quốc lộ số Một và đường sắt Hà Nội - Sài gòn đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng đã tạo ra những tiện ích vô cùng to lớn. Tiếp theo, công trình thủy điện Bái thượng hoàn thành cung cấp điện cho Tỉnh lỵ Thanh hóa và cung cấp nguồn nước theo các nông giang chảy về những vùng đất phì nhiêu. Dải núi Nưa kéo từ Thọ xuân dài gần hai mươi cây số thấp dần về phía Nông cống. Đặc điếm ấy của địa hình cùng mưa gió lũ bão đã dịch chuyển một khối lượng đất mầu bồi xuống vũng trũng, tạo nên một vùng thổ nhưỡng vô cùng lý tưởng để trồng lúa nước. Ba công trình thế kỷ đã tạo nên một sự cộng hưởng to lớn về kinh tế - xã hội, đấy là sức hút vô tận cho một cuộc đầu tư ồ ạt. Hàng chục đồn điền, hầm mỏ của tư bản bản xứ và tư bản Pháp quốc liên tiếp mọc lên, một diện mạo mới đã lộ dần trên một vùng chiêm trũng(48).
Công cuộc đầu tư kéo theo sự bần cùng của dân chúng. Những cuộc trưng dụng đất đai, những mánh lới chiếm đoạt, những đợt huy động phu phen, tạp dịch đi xây dựng cầu đường, sân bay, bến cảng, đồn điền liên tiếp với những cuộc bắt bớ đánh đập tra tấn dã man. Nhóm Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội triển khai chỉ đạo của xứ ủy vận động nhân dân không nộp đất, không đi phu. Cuộc vận động lan tỏa từ tổng Cao sang tồng Văn đến tổng La miệt.



Bùi San khét tiếng đàn áp phong trào cách mạng và cũng khét tiếng với những mánh lới làm ăn. Ông ta hoàn toàn thấu hiểu người chiến thắng là người chiếm được trái tim khối óc của dân chúng nên đã cố công mời về cố đạo Sinh Tân. Sinh Tân là người Pháp lấy tên Việt trong sứ mệnh truyền bá đạo Thiên chúa. Ông ta đã truyền triết lý ấy sang Bùi San. Phải kéo bằng được dân chúng vào vòng tay Chúa biến họ thành con chiên, phải có nhà thờ Thiên Chúa làm nơi chăn dắt phần hồn cho con chiên và theo ông ta, cả một vùng mấy trăm ngàn dân nay mới có hai nhà thờ Thái Yên và Cổ Định(49) là quá ít.
Hôm nay, Sinh Tân cùng Bùi San đi thị sát vùng Cẩm bào, Vũ Yên, Rú Mía, Thanh bôi. Hai người dừng tại núi Ná làng Cẩm bào, nơi họ đã chọn làm vị trí xây ngôi nhà thờ thứ ba.  
Đây là một vùng đồi. Những quả đồi đất đỏ nối liền một dải suốt mấy làng, giữa các làng là những cánh đồng lúa đang thì con gái. Màu xanh trải dài lên tận vùng núi Thanh lâm huyện Như xuân điệp trùng rừng đinh, lim, sến, táu. Giữa những quả đồi là con sông Mực chảy về hòa với dòng sông Yên, ra biển. Từ đây, ngoài lợi thế sông ngòi tự nhiên, nếu làm đường bộ nối với quốc lộ Một chỉ mất năm cây số, nếu làm đường sắt nối với ga Yên thái hoặc ga Minh khôi cũng chỉ trên dưới chục cây. Thật khó có vùng nào mà cả ba loại hình giao thông lại cho tỷ suất đầu tư nhẹ nhàng như vậy.
Bùi San giơ cây can khoát một vòng rộng lớn quanh Vực Mơ. Làn nước từ những con suối bắt nguồn trong dãy Nưa sơn tụ vào vực nước trong xanh rồi chảy ngầm dưới dãy núi U Chiêng ra hói(50) Cung điền hòa vào dòng sông Yên rợp bóng cây trên đôi bờ thơ mộng. Bên bờ phía tây là mấy trăm hec ta Bãi Áng, một bãi đất bằng nối liền một dải với đồng Tháo Nợ cũng là một dải đất bằng còn rộng lớn hơn với những bản Mường đã định cư sinh sống lâu đời. Họ luôn luôn hướng về đồng bằng, về với cội nguồn của đồng bào mình đang sinh sống ở phía biển khơi theo truyền thuyết mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng. Khối đất hình con Rùa trượt dài xuống Vực Mơ tạo nên cảm hứng cho con người sáng tạo nên truyền thuyết thần Kim quy trên đường tìm đường về Đông Hải đã đánh nhau với Hà Bá. Đó là một câu chuyện bi tráng và cảm động, Thần Rùa tìm đường ra biển đến Vực Mơ gặp Hà Bá, hai bên đánh nhau. Những trận chiến liên miên mỗi năm một lần là những trận lũ lụt nước ngập mênh mông nhấn chìm mùa màng và tài sản. Dải núi có hai màu đất, phía tây đất đỏ vì thấm máu Thần Rùa, phía đông đất đen là màu máu của Hà Bá(51).
Bùi San cao giọng:
- Trong nay mai, một con nông giang sẽ đưa nước men theo dải đồi đất đỏ từ Vũ yên qua Thanh bôi tới đồng Tháo nợ. Hàng ngàn héc ta đất vùng Thanh lâm, Đồng Đẻ sẽ được cải tạo. Lúc ấy chúng ta sẽ gọi mời các chúa đất từ Huế ra, Hà nội vào và cả các nhà tư bản từ Pháp quốc vượt đại dương. Nhà thờ sẽ xây tại núi Ná soi bóng xuống vực Mơ, bên cạnh là đồn lính Khố Xanh, kinh thánh và súng đạn sẽ chặt đứt mối liên hệ giữa bọn cộng sản vô thần với dân chúng!
Bùi San cao hứng chém tay vào khoảng không trước mặt. Sinh Tân đưa bàn tay lông lá nắm chặt tay Bùi San. Tâm địa đế quốc thực dân và phong kiến chúa đất gặp nhau trong điệu cười kẻ cướp.




Nghe tin có Tri huyện và Cha đạo về ngắm đất xây nhà thờ, dân làng Cẩm bào đang làm đồng vác nguyên cả cày cuốc, kéo lên. Chả mấy chốc người trong làng, người ngoài đồng từ Vũ yên, Rú Mía, Thanh bôi cũng kéo tới. Họ vây chặt hai người và mấy tên lính lệ. Bùi San nói lớn:
- Các người hãy nghe đây. Tại núi Ná này nhà nước sẽ xây Nhà thờ đạo Thiên chúa. Cha Sinh Tân đây sẽ chăm lo phần hồn cho các người không bị sa vào địa ngục của bọn vô thần cộng sản! Những cánh đồng kia sẽ được trưng dụng để phục vụ cho lợi ích quốc gia.
Cây can trên tay Bùi San khoát một vòng rộng lớn ra những cánh đồng lúa đang thì con gái. Bà con lao xao:
- Lúa trên đồng sắp làm đòng mà trưng thu thì đến mùa lấy gì để gặt?
- Ruộng của cha ông mình khai khẩn dành lại cho con cháu chúng mình, sao lại trưng thu?
- Mất ruộng rồi lấy gì mà sống đây?
Tiếng bàn tán càng lúc càng lớn, một ông già trịnh trọng:
- Thưa quan Tri huyện, chúng tôi chỉ biết theo đạo của người Việt là thờ Phật và thờ cúng tổ tiên, tại sao lại phải xây dựng nhà thờ đạo Gia tô.
Bùi San khinh thị:
- Muốn theo cộng sản hả? Các người muốn làm loạn à?
Ông già vẫn chắp hai tay trước bụng, từ tốn:
- Ngài Quan tri quá lời rồi. Xưa nay, chúng tôi tắt lửa tối đèn có nhau, tổ tiên luôn phù hộ độ trì cho chúng tôi cấy cày lấy thóc lúa nuôi nhau, chỉ mong nhà nước giữ cho hai chữ bình yên chứ đâu có muốn loạn lạc!
Dao cuốc huơ lên cùng tiếng người rần rần họa theo những lời ông cụ vùa nói. Bùi San càng nóng mắt:
- Coi chừng ăn phải bả cộng sản. Các người…
Ông ta móc súng lục ra kéo đạn lên nòng. Bọn lính cũng giương súng làm theo, tiếng cơ bẩm lên đạn roát roát. Những nòng súng chĩa thẳng vào đám đông. Sinh Tân lỉnh ra phía con ngựa của mình. Dân Cẩm bào, Vũ yên, Rú Mía, Thanh bôi vẫn đang tiếp tục kéo đến, bên hông người nào cũng đeo bao dao, tay ai cũng cầm cuốc cầm cào, tiếng hô đả đảo bọn cướp đất của đoàn người từ xa đang rõ dần. Bùi San nghiến răng:
- Phép nước không có chỗ cho bọn khố rách áo ôm lý sự lằng nhằng…
Hắn bắn một phát thị uy nhưng không ngờ một tên lính giật mình để súng cướp cò. Viên đạn xuyên qua bụng một thanh niên đứng trước mặt, anh ta cố bổ một nhát cuốc về phía trước rồi mới gục xuống. Cuộc xô xát của những người nông dân hờn căm chất ngất với bọn lính khố xanh chưa bao giờ đánh trận diễn ra ngay trên núi Ná, nơi mà Bùi San và Sinh Tân đang rắp tâm xây nhà thờ Thiên chúa để chăn dắt phần hồn cho những con chiên.
Bọn lính tập chưa quen mùi máu bây giờ thấy người bị đạn bắn thủng bụng đã rối loạn rồi quay đầu bỏ chạy. Bùi San và Sinh Tân cũng lên ngựa phi nước đại, tớ thầy không dám quay đầu nhìn cảnh bà con khiêng người thanh niên cùng với tiếng khóc gào vỡ núi.
Vũ Dinh, Lê Viết và Nguyễn Kiên băng rừng vào Vũ Yên. Đại diện bốn làng họp cùng ba người, đã nhận định:
- Đây là cuộc nổi dậy đầu tiên(52) của nông dân vùng Nam Nưa Sơn. Bùi San với bản chất hung hăng sẽ tổ chức đàn áp phủ đầu. Vấn đề là chúng sẽ cùng lúc đàn áp cả bốn làng hay tập trung vào làng nào. Căn cứ vào lực lượng hiện có, Bùi San chưa có thể huy động được đội lính đồn Thị long. Như vậy là chỉ có đội lính đồn Mưng và số lính lệ quen loanh quanh nơi nha phủ. Nếu rải ra bốn làng sẽ khó cự lại lực lượng dân chúng đông đảo. Cuộc xung đột hôm nay xẩy ra trên núi Né thuộc đất Cầm bào nhưng lực lượng nổi dậy đa số là người làng Vũ yên, nhiều khả năng chúng tập trung càn vào Vũ Yên. Tuy nhiên, cuộc càn cũng chỉ là răn đe chứ cung cách lính tráng như hôm nay thì khó có khả năng tiến hành với quy mô lớn!
Với nhận định như vậy, phương án tác chiến đã được thống nhất là lực lượng chủ yếu tổ chức tại làng Vũ yên, các làng còn lại chuần bị sẵn sàng khi cần sẽ kéo đến hỗ trợ cho Vũ Yên nhưng làng nào cũng phải sẵn sàng đáp ứng mọi diễn biến tại làng mình.
Không như nhận định, ngày hôm sau Bùi San cùng Sinh Tân dẫn hai mươi tay súng mang tấm biển vẽ sơ đồ nhà thờ đến núi Né cắm thị uy. Dân Cẩm bào xông ra giằng tấm biển không cho mấy tên lính chôn cột. Biết tin, lực lượng Vũ Yên vượt cầu khỉ(53) tiến sang với hờn căm ngút trời. Đoàn người đi đến đâu tiếng hô đả đảo cướp đất vang tới đó. Mấy bà nạ dòng cầm cào cầm cuốc xông tới vây chặt Bùi San chửi mắng để lính bắn người vô tội. Bà mẹ có người con trai bị bắn thủng bụng đã không kìm nổi uất hận tụt váy đập vào bọn lính, đập thẳng vào mặt Bùi San(54). Dân Rú Mía, Thanh bôi cũng đã vượt sông Mực đến hò hét hỗ trợ. Cuộc dành giật càng thêm căng thẳng, tấm biến cứ cắm xuống lại bị nhổ lên, thời gian trôi qua mà không sao dựng được.
Bùi San điên tiết rút súng ra nhưng nghĩ sao lại dắt súng vào. Đỗ tú tài ta ra làm quan Nam Triều, chất nhà Nho vẫn rần rần trong huyết quản. Chưa bao giờ ông ta phải nhận một sự nhục nhã đến thế này, quan phụ mẫu bị dân đập váy vào mặt thì còn gì nhục hơn. Nhưng ông ta vẫn phải cố nhịn, không thể đem súng ra dọa một mụ đàn bà!
Nghe lệnh, tên Cai hô lính “lập nghiêm” và lên đạn. Nòng súng chĩa thẳng vào đám người già, đàn bà, trẻ con đang vòng trong vòng ngoài. Những người đã chứng kiến anh thanh niên hôm qua bị bắn vào bụng bây giờ nhìn thấy nòng súng chĩa vào mình thì sợ. Một vài người khựng lại, đã có người lùi, khối quần chúng nông dân bị núng thế. Lính bước lên một bước, họ lùi hai ba bước rồi bỗng nhiên cả đám quay đầu chạy.
Đội thanh niên xung phong được trang bị giáo mác, tay thước và gậy, đang núp trong các bờ tre bật lên xông thẳng vào bọn lính. Một loạt súng nổ, mấy người gục xuống. Nhưng khi lính còn phải kéo cơ bẩm lên đạn những khẩu súng trường cổ lỗ thì nhiều thanh niên đã kịp áp sát. Loạt đoạn thứ hai chỉ nổ vu vơ, số người trúng đạn không đáng kể. Sau loạt súng thứ hai thì không tên lính nào kịp lên đạn nữa, cuộc đấu trở nên cân bằng. Súng không lên đạn không cự nổi tay thước gỗ lim và gậy tre đực. Số người bỏ chạy thấy thế đã quay lại. Lực lượng dân làng đông hơn gấp bội, bây giờ đến lượt bọn lính núng thế phải lùi. Dân càng áp tới. Không có một mệnh lệnh nào nhưng cả cai cả lính đều ôm đầu chạy. Thừa thắng, bà con đuổi theo đến đường cái mới quay lại. Họ cần phải xem con cháu mình có đứa nào bị trúng đạn không!
Bùi San và Sinh Tân không còn khả năng kiểm soát tình hình. Hai người cắm cổ phi ngựa mặc cho lính đồn chạy tản mát khắp nơi.
Cả mấy làng đang túm tụm khóc than trước những người tử nạn. Những thanh niên nông dân chỉ quen cầm cày cầm cuốc, mới tối hôm qua được tập hợp thành đội xung kích với vũ khí thô sơ hôm nay đã dũng cảm đương đầu với súng đạn.
Nhóm Thanh niên cách mạng đồng chí Hội họp rút kinh nghiệm. Lần đầu tiên vùng Nam Nưa sơn có một cuộc biểu dương lực lượng quần chúng, đã phá tan hành động cắm đất và âm mưu xây nhà thờ Gia tô tại Cẩm bào. Đây là kết quả của công tác tuyên truyền vận động sau khi có ý kiến chỉ đạo của Xứ ủy. Nhóm cũng nghiêm túc kiểm điểm sai sót về nhận định đánh giá tình hình và những lúng túng trong chỉ huy cụ thể. Tâm trạng của nhóm vô cùng phấn khởi khi được chứng kiến sức mạnh của quần chúng nhân dân. Qua lửa đạn đấu tranh, ai cũng như lớn thêm lên một tầm vóc mới.  
Bùi San bỏ chạy nhưng sau đó đã sai lính về làng Vìn bắt Vũ Dinh. Ông đã lánh vào Khe Dứa rồi trốn lên một bản người Lô Lô trong vùng núi Như xuân. Cáo yết truy nã, mật thám rình mò, lính đồn phục kích khắp nơi nhưng tình hình vô cùng khẩn thiết, ông không thể nằm im trốn tránh. Trên đường về chùa Vĩnh Thái xin chỉ đạo của cấp trên, ông đã bị bắt và sau đó bị đày đi Quảng Ngãi.







10.
Sau vụ Cầm bào, Lý Hộ bị triệu về huyện đường. Hương lý làng Vìn không quản được cựu tù Vũ Dinh, để ông ta phá lệnh quản thúc vào Cẩm bào chỉ huy vụ dân nổi loạn là tội rất lớn.
Họ Lê như mọi lần lại tụ họp và khẳng định đây là mánh làm ăn của vợ chồng Bùi San. Moi tiền moi của hương lý các làng đã thành máu nghiện trong người mụ Huyện, với cái cớ để xổng cựu tù thì chắc chắn mụ sẽ không nhẹ tay với nhà Lý Hộ.
Theo trát, Lý Hộ lên ngồi chờ ở sảnh đường từ sáng sớm. Trong Nha phủ người qua lại rất nhiều, ai đi qua Lý Hộ cũng khom lưng “Lạy ông lớn ạ” nhưng Bùi San vẫn tảng lờ như chưa hề nhìn thấy. Trong khi ấy, người nhà Lý Hộ đã giắt tệp trích lục trong bọc vòng cổng sau vào nhà bà Huyện.
- Bẩm bà, ông con sai đem trích lục và tờ biên lên hầu bà lớn ạ!
Bà Huyện nửa ngồi nửa nằm trên sôpha, cầm tệp trích lục lật lật từng tờ. Hai con mắt của bà chau lại trước lúc nó long lên như muốn chọc tiết anh người nhà ông Lý. Giọng bà the thé:
- Thằng cha Lý nhà mày còn tiếc mấy mẫu Đồng Ưu! Tao dí vào…
Tiếng “dí vào” chưa dứt thì tập giấy đã bay đánh toẹt xuống sàn gạch. Anh người nhà Lý Hộ lom khom nhặt lên rồi rút trong người ra tập trích lục khác. Lần này là những mẫu ruộng Đồng Ưu, những mẫu ruộng thuộc loại nhất đẳng điền.
- Dạ bẩm, nếu bà thích đồng Ưu ông con xin hầu bà ạ!
Bà huyện mở ra xem nhưng chưa giở hết đã chép miệng khinh rẻ:
- Chỉ có thế này thôi hả lũ lý kiết?
Anh người nhà Lý Hộ xun xoe:
- Bẩm bà, bên lò đang xay giã số gạo bà dạy, còn đôi gà thiến và đôi lợn sữa bác quản đã nhận rồi đấy ạ!
Bà huyện cười hé hé nhưng tiếng cười chỉ xóe ra rồi tắt ngay. Sáng nay, khi thấy bóng Lý Hộ ngoài cửa phủ, bà Huyện đã dặn anh quản gia rảo một vòng xem dưới làng Vìn đưa lên những gì. Mấy xe cút kít chở thóc về bên khu máy xay, lợn sữa và gà thiến đã đưa xuống nhà ngang, quản gia về bẩm đã đầy đủ. Câu hỏi vừa rồi là bà hỏi về số ruộng đồng Ưu, nhẩm nhanh mấy tờ trích lục bà thấy mới có ba mẫu. Cơ hội hiếm có nên bà quyết ép:
- Chắc ông Lý nhà mày muốn nếm cơm tù! Tội để xổng cựu tù không nhỏ đâu!
Cái vẻ mặc kệ chúng bay của bà Huyện làm anh người nhà Lý Hộ cuống:
- Dạ, bẩm bà. Tờ biên này còn để trống tên cánh đồng và số mẫu ruộng, cúi xin bà lớn dạy cho một lời để con điền vào. Ông con đã ký sẵn hầu bà rồi đấy ạ…
Bây giờ bà huyện mới nhìn đến tờ giấy mà nãy giờ anh người nhà Lý Hộ bảo là tờ biên. Đấy là giấy giao kèo bán ruộng đã có chữ ký và đóng triện lý trưởng, đúng là chỗ ghi số ruộng và tên cánh đồng còn để trống.
- Chữ ai đây?
 Bà huyện xách mé vì biết chữ Lý Hộ xấu như gà bươi. Anh người nhà bây giờ mới tươi nét mặt:
- Dạ, bẩm bà, con viết theo lệnh Cụ Lý nhà con ạ!
- Ghi vào!
- Bẩm bà, bao nhiêu ạ?
- Mày biết tội để xổng cựu tù phải đền mấy năm tù không?
- Dạ dạ… thưa bà năm mẫu được không ạ?
- Tội này chả phải xử xét, cứ cho đi phát vãng suốt đời…
- Dạ dạ dạ… sáu mẫu được không ạ?
- Vào tù rồi tha hồ mà đếm…
Anh người nhà Lý Hộ đâu phải lần đầu lên hầu bà Huyện nhưng hôm nay phần sợ bà Huyện ở đây, phần sợ bà Lý ở nhà, cả hồn lẫn vía bay đi đâu chẳng còn biết xoay xở thế nào.
- Con xin ghi hầu bà lớn hai mươi mẫu đồng Ưu, mong bà lớn rộng lòng thứ cho cụ Lý nhà con!
Bà Huyện lại cười hé hé:
- Nhưng phải liền bờ liền thửa đấy, nghe chưa?
- Dạ…
Bửu San bước vào khi bà Huyện đã kiểm tra đầy đủ những tờ trích lục. Anh người nhà Lý Hộ vội bẩm chào rồi len lén kéo vạt áo lau mồ hôi.
- Thôi, được rồi. Vũ Dinh đã được bắt lại chứ không thì…
Đến lúc bị tống khứ, anh người nhà Lý trưởng vẫn còn bị dọa nạt.
- Anh Huyện có cách nào giúp Lý Hộ một tay chứ không thì hắn sẽ tù mọt gông!
Rõ là câu vừa đãi vừa đe mà người nhà Lý Hộ về cứ nhắc đi nhắc lại với bà Lý. Xót của lắm nhưng nghe đến tù mọt gông, không những bà Lý mà cả họ Lê lấy làm may.






11.
Kiên đi công tác liên miên nên ông bà Thường phải vất vả ngày đêm với mấy mẫu ruộng. Gieo mạ, cày bừa, làm đất rồi cấy… các công đoạn của một quy trình trồng lúa nước cứ theo mùa vụ quay đi quay lạị. Hai ông bà đã khó nhọc, cái Hĩm cũng khó nhọc chẳng kém gì cha mẹ. Nó quần quật với lợn gà, cơm nước, chiều lại lần bờ ruộng cắt cho đôi trâu gánh cỏ...
Đang mùa cày, ông Thường phải tranh thủ cày đổi cho mấy nhà không có trâu để họ trả lại bằng công cấy. Đôi trâu nhà ông rất thuần. Sáng nay dong con đực thiến ra cày đám rẻo vàn, người với trâu lầm lủi đến trưa thì bà Thường mang cơm dắt theo con trâu nái để chiều ông cày tiếp thửa đồng dưới.
Cái Hĩm thuộc tính nết bố, việc ăn uống của ông Thường chỉ có nó làm là ông vừa ý. Nồi cơm gạo rự nấu trong cái niêu đất được bọc kín giữ nóng, đưa ra ruộng với mấy miếng cá khô và vài mảnh vỏ dừa. Dù bờ ruộng có úi xùi đến mấy ông vẫn tìm được nơi thong dong nhóm lửa, nướng cá. Bữa cơm của ông thợ cày chỉ có vậy, ăn xong đã có bầu nước vối rõ to. Không bao giờ sắp cơm cho bố mà nó quên cút rượu. Rượu gạo nhà nấu, cấm đoán gì gì nhưng nhà ai chả phải tự nấu để lấy bả cho lợn cho gà, để ngâm dây nắm cơm(55) uống cho đỡ đau lưng.
Ông Thường có cách ăn cơm rất lạ. Niêu đất còn nóng hôi hổi, ông vừa tung vừa gõ, từng mảnh sành vỡ bóc ra để lại cục cơm nguyên hình lòng nồi. Cơm xắt lát và cá khô nướng qua than dừa với cút rượu, ăn xong ông ngả người ra bờ cỏ nhắm mắt một lát cho giãn xương.
Đồng chưa ai cấy nên thả trâu thoải mái. Mùa này lúa chét mọc xanh rờn, vừa ngọt vừa bùi trâu ăn không biết chán. Dừng cày, ông phạt bờ cuốc góc, ông chỉ ngơi tay khi mặt trời khuất hẳn sau núi không còn nhìn thấy lát cày.
Trước cảnh neo bấn, nhiều người góp ý với ông bà nên cưới vợ cho Kiên. Bà Thường cũng có nhắm một đám nhưng ông Thường bảo cứ để cho con tự chọn lựa. Con trai là người cách mạng, con dâu phải là đứa biết chia sẻ hiểm nguy, hoạt động bí mật là tự nguyện nhận lấy những hy sinh, không có người bạn đời thấu hiểu rất khó giữ được vẹn toàn.
Từ ngày thụ chức, Bản Kiên chưa có dịp nào đến thăm ông Bạ Tín. Một hôm có chút việc giấy tờ, Kiên đến nhà nhưng ông Bạ Tín lại đi vắng. Tiếp Kiên là cô con gái canh đôi sừng trâu ngày thi đoạt Hệch năm nào. Hai người nói chuyện rất vui vẻ, đột nhiên cô hỏi sao anh Kiên không lấy vợ để đỡ đần cho hai bác. Kiên không hề chuẩn bị cho đề tài này nên không biết nói thế nào. Hôm nay, nhân buổi ông Thường mời ông Dị sang bàn về việc lập gia đình cho mình, anh mới nhỏ nhẹ:
- Thầy với chú thấy con gái ông Bạ Tín thế nào?
Bà Thường đang nấu dưới bếp, vội chạy lên:
- Ôi, con cũng để ý đến con bé đó ư? Mẹ đang định nói với thầy với chú…
- Như vậy là là mẹ cũng đã để ý. Thầy mẹ đi hỏi cô ấy cho con!
Những đắn đo của ông Thường được xua tan. Ai chứ con Bạ Tín thì được quá, khỏe mạnh lại thạo việc nhà nông. Nghe người ta khen nó biết đi cấy từ lúc mười ba bây giờ mười bẩy đã thạo mọi việc cày bừa, cấy gặt.
Ai cũng bảo ông Bạ Tín có số nhàn nhã. Nhà đông con gái, việc đồng áng vợ ông với mấy đứa con gái làm tất tật. Ông chỉ phải đảm nhiệm mỗi việc nhổ mạ mà nhiều khi con gái còn phải ra phụ với thầy. Ngoài những lúc phải ngồi ghi chép hay có ai xin cái giấy khai sinh cái giấy chứng tử, thời gian còn lại ông thảnh thơi xách lồng chim xuống tận làng Côn cương chơi với người bạn làm Ký Ga. Nhà ông có hai cây vạn tuế, ông tỉa tót còn hơn chăm trẻ mới đẻ. Hai con cu gáy trong hai cái lồng treo bên gốc vạn tuế cứ gù lấy gù để khiến những con chim ở đâu đâu cũng bay về đậu trên ngọn cây quanh nhà chổng lông đít gù theo.
Gặt xong vụ lúa tháng Mười, hai nhà tổ chức đám cưới. Viết nhận phần mời gánh hát về diễn ba ngày, thôi thì đủ cả tuồng, chèo, chầu văn… Bài nào cũng được cài vào nội dung dân ta một cổ hai tròng tại sao cứ mãi cam phận mà không bảo nhau đoàn kết vùng lên, đám cưới mà như cuộc mít tinh tuyên truyền. Cháu ông Hương Kiểm lấy con gái ông Hương Bạ, làng Vìn ai dám nói gì!
Khi đón dâu về đến ngõ, Viết hò hét đám thanh niên đốt pháo đùng đùng. Mấy cậu nghịch ngợm dí cả dây pháo tép vào lưng cô dâu làm lửa bén cháy cái vạt áo the. Cô dâu lăn đùng ra khóc, bắt đền. Kiên xấu hổ nhờ Viết ra dỗ nhưng dỗ dành thế nào cũng không được. Bí quá, anh phải nhờ người mở cái rương mây lấy cái áo khác rồi nhờ bọn con gái phù dâu vây quanh làm bình phong để vợ thay áo mới.
Bà Thường vừa thấy con dâu bước vào đã vội xách bình vôi lỉnh ra vườn rồi tắt qua hàng rào cúc tần sang gửi bên nhà hàng xóm. Vị chủ lễ hô:
- Mẹ chồng đuổi cái bạc cái bẽo đi cho cô dâu tân ấm lành duyên mới!
Mới đấy mà lại đã thấy bà Thường bê chậu nước cho cô dâu lúng túng khẽ nhúng bàn chân. Chủ lễ lại hô:
- Cô dâu chân ướt chân ráo mới về nhà chồng… Rồi hướng dẫn cô theo Kiên vào lễ gia tiên.
Từ bậc thềm đến bàn thờ tổ chỉ mấy bước chân nhưng cô dâu phải theo mẹ chồng vòng qua gian chái, đi qua cái cối xay, cái chày giã gạo, đến đâu bà Thường cũng khe khẽ:
- Sờ tay vào cái chàng xay đi con…(57)



Đám cưới được một năm, ông bà Thường đã có đứa cháu nội. Ngôi nhà như được thổi vào một sinh khí mới. Năm sau ai cũng bi bô theo đứa cháu gọi bố, gọi bà… Công tác cuốn Kiên đi, hôm nay sau một chuyến chuyển công văn trở về, anh được ngồi ăn bữa tối cùng bố mẹ, vợ con.
Bữa cơm còn chưa xong đã nghe tiếng la hét ngoài đường. Lát sau có tiếng ô tô và tiếng hát của Viết “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian…”. Mấy tên lính xộc vào gạt ông bà Thường, trói Kiên. Bà Thường không hiểu cái gì đang xẩy ra, chỉ còn biết đứng dựa vào cây cột mặc cho hai hàng nước mắt lăn dài. Con bé sợ quá khóc ré lên nhoài hai tay đòi bố. Thấy người ta trói bố dong đi, nó khóc và đòi theo như mọi lần đòi bố thơm má nó trước khi đi công tác. Chỉ có vợ Kiên chẳng nói câu nào. Trong sắc mặt tái xám, chị bế con đứng đấy, nhẫn nhịn. Quan lính, súng đạn và những tiếng thét không làm mờ ánh mắt hờn căm của bà mẹ trẻ. Trong tâm thức, chị đã biết chồng mình là người cách mạng và nguyện chia sẻ cùng anh trên con đường đầy chông gai. Ý thức đó đã có trong chị từ cái lần đầu tiên anh đến chơi nhà.
Chiếc xe Đốt- Cát(57) chạy ra khỏi làng. Trên thùng xe, Viết và Kiên bị trói giữa hai hàng lính ngồi dọc hai thành xe. Xe chạy qua phố Huyện, một tốp lính khác dong lên ba người nữa. Năm người trai bị trói lại với nhau, họ tựa vào nhau cùng vươn cao lồng ngực hát vang Quốc tế ca… Quyết phen này sống chết mà thôi. Đấu tranh này là trận cuối cùng… Năm chàng trai trẻ đã truyền sang nhau một quyết tâm, dù phải chịu cực hình tàn khốc thế nào cũng không bao giờ phản bội đoàn thể. Tiếng hát vượt ra ngoài thùng xe tăm tối, vượt qua hai hàng lính và súng đạn, âm vang trên suốt chặng đường về nhà lao Thanh hóa.
Nhật đảo chính Pháp, chính quyền cũ của nhà nước bảo hộ cúi đầu phục vụ quân đội Thiên Hoàng. Nguyễn Mạnh về thay Bùi San. Đây là một kẻ thân Nhật và gian ác hơn Bùi San nhiều lần. Để lấy lòng người Nhật, hắn ráo riết bắt phu đi làm sân bay Lai thành, cho quân cướp trắng hàng trăm mẫu cói của dân vùng hạ huyện để nộp cho Nhật làm bao bì. Những cánh đồng lúa đang lên xanh dọc đôi bờ sông Lãng, sông Hoàng và sông Thị long, hắn bắt nhổ đi để trồng đay. Làng Vìn trải qua mùa đông năm Giáp Thân kinh hoàng và đói rét.
Trên ngọn cây đa, một lá cờ búa liềm tung bay phấp phới. Lá cờ là lời thông báo, dù đế quốc phong kiến và phát xít Nhật điên cuồng đàn áp đến đâu, cách mạng vẫn sống mãi trong lòng nhân dân. Mặt trận Việt minh vẫn lớn mạnh không ngừng. Lớp thiếu niên 15-16 tuổi noi theo lớp đàn anh gia nhập đội ngũ. Họ đã vận động nhân dân không đi phu, không trồng đay, không đóng thuế. Trong làng, nhà còn gạo giúp nhà hết gạo, nhà neo người được nhà có lao động đến hộ hành. Làng Vìn đi qua mùa đông rét mướt bằng khoai ngô rau cỏ nhưng càng thêm nồng ấm nghĩa xóm tình làng.
Từ ngày Viết bị bắt vào tù, dân làng Vìn đã thay đổi cách nhìn đối với Lê Hộ. Bản thân ông ta và gia đình cũng thay đổi đến không ngờ. Trước đây, nghe theo lời Bùi San, cả nhà ông lầm tưởng Viết là kẻ đàn đúm theo bọn phản loạn, bây giờ được nghe những lời của bà con khen ngợi, ông và vợ ông đã ngộ ra một lý lẽ mới. Lê Hộ đã năng qua lại nhà ông Thường. Cùng cảnh con bị giam cùng nhà lao lại phải chạy chọt mới được vào thăm, hai nhà không giúp nhau thì còn chờ ai giúp. Những lần đi tiếp tế cho Viết, ông ngỡ ngàng vì Viết bị xiềng mà vẫn luôn tin tưởng vào sự thành công của cách mạng. Con ông khuyên ông đi theo con đường các đồng chí của anh đang đi, con đường ấy sẽ đưa cả dân tộc tới một cuộc sống bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Trong chốn lao tù, sự chấp nhận hy sinh vì nghĩa lớn không mưu cầu lợi ích cho riêng một ai, điều đó làm ông càng nghĩ càng thấy mát lòng.
Hôm nay chị Kiên bế con về ngoại để xin bố làm toa thuốc đem vào nhà lao chữa ghẻ cho chồng. Ông Bạ Tín vừa chế thuốc vừa khen chàng rể, còn bà Bạ thì bế đứa cháu gái mà nựng cháu “Bố cô là lớn gan lắm” rồi bảo để cháu lại bà trông cho mà đi thăm nuôi chồng.
Người Nam định, Thái bình kéo vào Thanh hóa tránh cuộc Nhật Pháp bắn nhau. Tiếng súng còn chưa dứt, nạn đói đã hiển hiện. Ruộng của họ đã bị chiếm để trồng đay, họ không thể trở về bản quán vì biết làm gì mà sống. Làng Vìn lại phải cưu mang. Ông Hộ, ông Thường tới từng nhà vận động bà con. Tổ tiên làng Vìn vốn từ Thăng long vì li loạn mà phải chạy vào đây đã được bà con bao bọc cưu mang, nay gặp người lâm nạn nên sẵn lòngng giúp giập tạ ơn. Người khá giả cho dạ thóc, những người chỉ đủ ăn cũng cho thúng khoai, ai cũng khuyên bà con Nam định, Thái bình kiên trì chờ lúa ngoài đồng sắp được gặt.  
Tháng 5 năm 1945, Kiên và Viết cùng các anh em khác được ra tù. Nói là được tha cũng chưa hẳn mà nói là vượt ngục cũng không đúng. Hôm ấy, người cai ngục mở cửa phòng giam cho mấy tên Nhật đeo kính trắng vào u ô gì đó. Rồi chúng cứ thế, bỏ đi. Cửa phòng giam không đóng, mọi người túa ra. Họ đi mở các phòng khác rồi phá nốt hai cánh cổng thông ra đường phố.
 Ngoài đường, những người thông thạo tin tức thông báo về tình hình thế giới. Hồng quân Liên Xô đang thừa thắng trong cuộc phản công như vũ bão, các tập đoàn quân, phương diện quân băng qua các vùng đất châu Âu tiến về Béc lanh. Họ sẽ tới sào huyệt cuối cùng của Phát xít Đức trong nay mai. Ngay cạnh chúng ta, Bát lộ quân Trung quốc đã giáng cho phát xít Nhật những đòn chí mạng, cách mạng Trung quốc cũng sắp giành thắng lợi. Có người nắm được chỉ thị của Trung ương “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đã tranh thủ phổ biến cho anh em.
Bị nhốt trong những nhà giam bịt bùng, nay được thênh thang giữa phố lại được tiếp thu những vấn đề thời sự to lớn và nóng hổi, ai cũng hân hoan. Họ bảo nhau nhanh chóng về quê, chuẩn bị cho một cuộc vùng lên giành chính quyền về tay nhân dân.
Kiên và Viết về đến làng Vìn lại càng thấy nhiều bất ngờ. Trên chòi cao, tổ thông tin tuyên truyền đang thông báo những kết quả sau một ngày công tác. Làng đã thành lập Ban hành động do Bếp Dị đứng đầu. Thanh niên, phụ nữ vai vác gậy tre tập“ách ơ” tại nơi mọi năm các làng tập trung vào hội Hệch. Thanh nữ không mặc váy, ai cũng quần xoóc áo sơ mi trắng cộc tay đóng phăng trông thật mạnh mẽ. Tất cả bước đều trong nhịp còi tre quên cả cái nắng đầu mùa, quên cả những tập tục váy thâm áo chùng bao đời trong những ngôi làng dưới chân dãy Nưa sơn.
Một không khí háo hức lạ thường, cái háo hức của sự đón chờ một ngày mai tươi sáng.
Trương Nẫm bây giờ là ủy viên Ban hành động, tuần đinh vẫn được ông cai quản nhưng nhiệm vụ đã khác. Ngoài tập luyện, họ được chia thành từng tốp, tốp đi tuần tra tốp lập chòi quan sát, mọi hoạt động đều không qua khỏi mắt họ.
Ông Dị đặc biệt quan tâm đến vấn đề vũ khí. Về cơ bản, vùng quê ông không có lính chính quy đồn trú, cũng chưa có một trận đánh nào lớn nên súng đạn với người dân là những vật xa lạ. Ông chỉ dám nghĩ đến việc trang bị cho đội tự vệ các loại đao kiếm, giáo mác. Ngày đi lính, ông võ vẽ nghề rèn nên nghĩ ngay đến làng rèn Đạt tam rồi lần mò đi mời được một ông phó. Sắt thép cũng là những thứ không sẵn ở vùng lúa nước, ông tổ chức anh em đi tháo tà vẹt đường tầu hỏa. Mác và kiếm không đủ trang bị cho mọi người, ông cho chọn gốc tre đực làm gậy. Mỗi gia đình đều phải có một vài thứ giáo mác gậy gộc và một cuộn thừng bện bằng xơ dừa sẵn sàng chờ lệnh.
Sau khi con bị bắt, Lê Hộ khăng khăng xin thôi chức với cái lý phải đi chung một con đường với người con trai. Vũ Chỉ từ chối mãi nhưng vì quá nể ông Dị mà phải thay Lê  Hộ làm Lý Trưởng. Nhận chức rồi nhưng ông ta vẫn làm mọi công việc như một tráng đinh.
Kiên, Viết về rồi hơn tháng sau Vũ Dinh cũng về. Ông đã tham gia cuộc phá ngục Quảng Ngãi, đã xung vào Đội du kích Ba tơ rồi được cấp trên bố trí cho ông vượt qua gần ngàn cây số trở về với phong trào Đông Nam Nưa sơn. Ông Dị triệu tập Ban hành động nghe ba người đồng chí vừa vượt qua ngục tù đế quốc phổ biến tình hình. Vận nước đã đến, thời cơ ngàn năm có một đã đến, làng Vìn hòa chung vào khí thế chuẩn bị vùng lên tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Ban hành động đổi tên thành Ban chuẩn bị khởi nghĩa, đội xung kích đổi thành Đội Vũ trang tuyên truyền. Sau mùa gặt, ông Hộ đã hiến mấy trăm xe tay thóc góp quỹ nuôi quân. Anh Bùi thật mát tay, đàn vịt của anh vẫn đẻ rất đều, cứ vài ngày lại thấy anh gánh một gánh trứng đến nộp tại nhà ông Dị. Tất cả mọi lực lượng đã sẵn sàng chờ hồi tù và hiệu lệnh là xông lên.
Tổng bộ Việt minh Thanh hóa đã phân công Vũ Dinh làm Trưởng Ban chuẩn bị khởi nghĩa huyện Nông cống, Lê Viết làm trợ lý trực tiếp giúp Vũ Dinh. Nguyễn Kiên nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Việt minh Tổng Cao xá(58). Cuộc cắm trại của “Thanh niên Phan Anh” tại hai làng Côn cương và Thịnh lạc đã được Ban chuẩn bị khởi nghĩa của Huyện khéo léo biến thành cuộc biểu dương lực lượng Việt Minh. Tiếp theo lời kêu gọi của đại diện Mặt trận Việt minh Huyện, Chủ nhiệm Việt Minh Tổng Cao xá Nguyễn Kiên dõng dạc khẳng định, nhân dân Cao xá không đi lính cho Nhật, không bán thóc cho Nhật, không đi phu làm sân bay Lai Thành cho Nhật. Ứng theo lời anh, khẩu hiệu “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “Việt Minh muôn năm”, “Việt nam độc lập muôn năm”… rền vang như sóng dậy giữa biển người trùng trùng. Cờ ba sọc bị hạ xuống, cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới trên bầu trời Nam Nưa sơn.
                                                                    Hà Nội, 2006 - 2012









Lời ngoài truyện

Theo các tài liệu chính thức, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân huyện Nông cống bắt đầu từ ngày 19 đến ngày 25 tháng 9 năm 1945 thì hoàn thành. Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa, các lực lượng nổi dậy tập trung cướp chính quyền tại trung tâm Huyện lỵ Cầu quan, Mỏ Crômite Cổ định, các đồn điền Yên Mỹ, Ngọc chẩm, Mỹ cái. Lính đồn Mưng và đồn Thị long đã án binh bất động.
Phiên họp liên tịch đầu tiên giữa Mặt trận Việt minh và Ủy ban khởi nghĩa huyện đã chính thức bầu ông Vũ Danh Thùy làm Chủ tịch. Ông là người đã gia nhập Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội từ tháng 5 năm 1926 và kiên trung với phong trào Nam Nưa sơn cho đến ngày chính quyền về tay nhân dân. Sau khởi nghĩa thắng lợi, ông cùng các đồng chí của mình đã dẫn dắt nhân dân vượt qua muôn vàn thách thức trong buổi bình minh của chế độ dân chủ cộng hòa. Nguyễn Đới (còn có tên là Nguyễn Kim Đới, Lê Đới) làm chủ nhiệm Việt minh Tổng Cao xá đến năm 1946 được điều về làm Đội trưởng Đội An ninh của Ty Công an Thanh hóa. Lê Văn Thiều, sau khởi nghĩa về làm Huyện đội trưởng Huyện đội Hà trung sau vào quân chủ lực, đến năm 1963 do bị thương trong lúc chỉ huy bộ đội huấn luyện đã chuyển ngành về làm Phó Ty thương nghiệp Thanh hóa. Lúc chuyển ngành, ông là Đại úy Tham mưu trưởng Trung đoàn pháo 157. Ba người này đều sinh và mất ở làng Vìn còn có tên là làng Thổ vị, cả ba đều được công nhận là Lão thành Cách mạng theo quy chế hiện hành nhà nước.
Ngày 18 tháng 2 năm 1946, sau khi có đủ số Đảng viên, chi bộ đầu tiên của Đảng bộ huyện Nông cống được thành lập. Số lượng và chất lượng đảng viên lớn mạnh không ngừng đã mở ra một thời kỳ mới của một vùng quê dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau 60 năm kể từ ngày thành lập, một nhà bia tưởng niệm đã được dựng lên ngay trên mảnh đất ngày xưa các bậc tiền bối đã cắm lều vịt làm căn cứ liên lạc và tạo kinh phí cho đoàn thể hoạt động. Trên tấm bia có dòng chữ “Nơi đây là địa điềm liên lạc của các đồng chí cách mạng tiền bối”.
Nghĩa địa Mùa Ốc ngày nay được dân làng xây dựng rất khang trang. Nhà nhà chăm chút phần mộ của tiên tổ và người thân, quanh năm không lúc nào ngớt mùi nhang thơm quấn quýt. Ba người trai làng Vìn ngày ấy, những người là nguyên mẫu cho các nhân vật trong thiên truyện này cũng được an táng nơi đây. Mùa gặt, xe công nông và xe kéo máy vò thung thăng trên mặt ruộng ngày xưa là cánh đồng chiêm trũng.
Thật là kỳ diệu.
Những dòng ghi trên tấm bia của ngôi nhà bia Mùa Ốc là sự vinh danh một cách trang trọng, cũng là sự tưởng thưởng nhưng hơn hết, mãi mãi đó là những lời nhắn nhủ với mai sau. Thiên truyện “Trai làng Vìn ngày ấy” xin được làm một vĩ thanh.

                                                                             Nguyễn Ngọc Minh

















Chú thích
(1) Hội Ngũ Hương: Mỗi làng có một hội Ngũ Hương gồm Lý trưởng, Phó Lý, Hương Kiểm, Hương Bạ(thư ký), Hương Bản(thủ quỹ).
(2) Hội đồng bô lão quan viên là các cụ (nam giới) từ 60 tuổi trở lên, do cụ Tiên chỉ đứng đầu.
(3) Quá giang: cây gỗ đã được chế tác trong kết cấu vì nhà gỗ, có vị trí đặt đúng tâm trên đầu hai cây cột cái.
(4) Bát trụ: Miếng gỗ hình vuông được đẽo gọt soi bào rất cầu kỳ đặt trên quá giang, dưới cái trụ.
(5) Tù và là vật làm bằng sừng trâu, thổi vào phát tiếng kêu tu tu, ngày xưa được nhan dân sử dụng phổ biến làm vật báo hiệu như còi, kẻng bây giờ.
(6) Đả phá thần quyền là một chủ trương lớn của Đảng trong công cuộc vận động cách mạng.
(7) Tri huyện là chức vụ nhà nước của người đứng đầu tại một huyện của chế độ cũ trước cách mạng 8/1945.
(8) Sở Liêm phóng: tên gọi cơ quan an ninh cấp tỉnh của chế độ cũ.
(9) Chiến khu Ba đình: căn cứ kháng chiến chống Pháp của Nghĩa quân ba đình tại huyện Nga sơn.
(10) Thanh niên cách mạng đồng chí Hội: Tổ chức cách mạng do lãnh tụ Nguyến Ái Quốc sáng lập tại Quảng châu Trung Quốc.
(11) Trương: tên gọi chức đội trưởng tuần đinh gồm 12 người.
(12) Tuần đinh: Là các thanh niên được làng cử vào đội tuần, gồm những người khỏe mạnh nhanh nhẹn trông coi an ninh trật tự, mùa màng ở mỗi làng.
(13) Bài thơ “Răn con cháu họ Vũ” có in trong cuốn Địa chí Nông cống do Nhà Xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1998.
(14) Tam quan: Đình làng Vìn ngay xưa có cổng ra vào gồm ba cửa, cửa đại ở giữa hai cửa tiểu hai bên.
(15) Cai Đoan: Người phụ trách về thuế của phủ huyện.
(16) Bia Hoàng giáp của cụ Nguyễn Đốc tại Văn Miếu Quốc Tử giám Hà nội (bên cạnh bia Trần Xuân Soạn).
(17) Làng Vìn còn hai anh em ruột đỗ Hoàng giáp năm 1508 dưới thời Lê Uy Mục là Lê Khắc Nhượng và Lê Khắc Vệ.
(18) Nghè: Ngôi nhà đón các Hoàng giáp vinh quy bái tổ được xây dựng ngay từ lúc các ngài về làng, về sau, các thế hệ con cháu cứ lần lần tu bổ thành nhà thờ rât uy nghi, làng Vìn gọi là Nghè.
(19) Bêp: chức vụ lính khố đỏ thời Pháp thuộc.
(20) Mác xây: Thành phố cảng nước Pháp.
(21) Chợ Huyện nay gọi là chợ Thượng.
(22) Bôn sê vích: Phiên âm tiếng Nga, là Đảng Cộng sản do Lê nin sáng lập.
(23) Tuytso: Một loại vải tốt thời Pháp thuộc.
(24) Supe Glop: Nhãn mác một loại xe đạp của Pháp.
(25) Thông, Phán: Các chức vụ (trong 12 chức vụ) giúp việc cho Tri huyện.
(26) Hương Kiểm: Chức vụ người trông coi an ninh, trật tự trong làng ngoài đồng của một làng.
(27) Bát Chiết yêu: Một loại bát sứ của Trung quốc xưa.
(28) Khoai nham: Một loại lương khô làm bằng khoai lang luộc chín trộn mật mía sấy khô của dân làng Vìn.
(29) Đông Chùa: Đỉnh cao thứ hai của dẫy núi Nưa thuộc xã Tế thắng.
(30) Thời Pháp thuộc, Nông cống có hai đồn lính là đồn Mưng và đồn Thị long. Mỗi đồn cũng chỉ có khoảng một trung đội thiếu, là lính tập nhưng chưa qua trận mạc và khoảng hơn chục lính lệ làm nhiệm vụ bảo vệ canh gác, chạy giấy hoặc đi bắt người đóng tại phủ. Thỉnh thoảng có một tốp lính do một Bang tá chỉ huy là lực lượng cơ động do tỉnh điều động. Về tinh thần, sắc lính nào cũng không mấy hăng hái trong việc đàn áp dân lành, điển hình là Bang tá Đỗ Tuấn Rẫy đã theo lực lượng Cần Vương, chiến đấu và hy sinh cho phong trào Cần Vương.
(31) Các địa danh trong truyện là có thật, hầu hết ngày nay vẫn còn.
(32) Điếm canh: Làng Vìn có 3 điếm canh là Đồng tuyền, điếm Trung và Điếm cầu Nổ. Ba điếm này do tuần đinh chia nhau trực canh giờ dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hương Kiểm.
(33) Bờ Nấp: là những bờ ruộng lớn, vừa để phân chia ranh giới những cánh đồng mẫu lớn, vừa ngăn nước, được dùng làm đường đi lại trên cánh đồng.
(34) Cá diếc, cá rô, cá thiểu: là các loại cá nước ngọt. Đồng làng Vìn ngày xưa có rất nhiều loài tôm cá do nước được ươm giữ năm này qua năm khác lại thông với sông Lãng còn gọi là sông Trời.
(35) Xăng phuốc xăng: 100%, lối nói tiếng Pháp không theo chuẩn.
(36) Xứ ủy: Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng ở trung Kỳ.
(37) Lao bảo: nhà tù đế quốc ở huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng trị.
(38) Mặt trận Bình dân: diễn ra ở Pháp vào năm 1936- 1939, có ảnh hưởng sâu rộng đến Đông dương, lúc bấy giờ còn gọi là Đông Pháp.
(39) Chét: cây lúa mọc ra từ những nốt sần ngang thân gốc rạ.
(40) Giáp hạt: là thời gian sắp gặt vụ lúa mới nên lúa vụ cũ đã hết, nhiều nhà thiếu ăn.
(41) Riu: Dụng cụ đánh bắt tôm tép đồng chiêm trũng.
(42) Bảo nông tri điền: Những tuần đinh được cắt cử trông coi ngoài đồng.
(43) Nước cốc mễ: cháo loãng, nấu bằng gạo tẻ, người Hoa kiều dùng thay nước uống.
(44) Nông dân vũng trũng thường tận dụng phía trên chuồng trâu làm kho đựng thóc.
(45) Áo bà ba màu đen, mũ phớt và kính dâm là trang phục của mật thám thời Pháp thuộc.
(46) Đưm đưm: loài chim có tiếng kêu đưm đưm, quá béo nên chỉ bay được quãng ngắn, dễ vồ bắt.
(47) Đám bảy nghề: Thời Pháp thuộc có một địa danh gọi là Chùa Đào trên đường 45 hay có cướp. Tác giả của bọn cướp đường này được người ta gọi bằng cái tên là đám bảy nghề.
(48) Từ 1925 đến Tháng 8/1945, Nông cống(cũ) có 18 đồn điền và 1 hầm mỏ, số đồn điền này cấy lúa, trồng cà phê, chủ yếu trên đất Nông cống ngày nay.
(49) Nhà thờ Thái yên và nhà thờ Cổ định nay vẫn còn.
(50) Hói: Nhánh sông trong đồng, khác với các nhánh sông trong núi gọi là suối.
(51) Thực chất, màu đất đen dưới núi Nưa là màu của quặng Crom.
(52) Cuộc nổi dậy của nông dân làng Cẩm bào đã được ghi trong sách Địa chí Nông cống.
(53) Cầu Khỉ: cầu bắc qua sông Mực dùng cho người đi bộ, bằng những cây tre buộc lại với nhau.
(54) Theo sách “Địa chí Nông công”: học giả Nguyễn văn Tố đã có bài “Phất cờ nương tử’ và nhà thơ Tú Mỡ có bài đăng trên báo “Con ong”. Chúng tôi xin ghi lại bài “Kính gửi ông chủ bút báo Con ong” của Tú Mỡ:
Kính ông “Báo con ong” trường thọ
Sau có lời giải tỏ để ông hay:
Sá chi mấy mạng dân cày
Ông rõ khéo thương vay khóc mướn
Và ông thương thì thương đã muộn
Từ chúng tôi được xuống tuyền đài
Đem âm cung so với chốn trần ai
Hai cõi ấy cuộc đời khác hẳn
Dẫu mang tiếng rằng ma chết bắn
Nhưng từ đây sướng lắm, ngài Ong!
Không lo ai cướp núi ngăn sông
Để lụy đến mấy ông lính tập
Và chân lý dưới này duy nhất
Không phân chia giữa Phật hay Gia (Gia tô)
Đều thờ chung thượng đế làm cha
Đâu có chuyện một nhà giết lẫn
Và cái nạn cẩu quan diệt chủng
Kẻ trị dân ai cũng công minh
Không điều lấy nhục làm vinh.
(55) Dây nắm cơm là một vị thuốc nam có công hiệu chữa bệnh đau lưng, được sắc hoặc ngâm rượu dùng phổ biến ở Nông cống.
(56) Khi đón dâu về, mẹ chồng đem bình vôi sang nhà hàng xóm hoặc bê nước cho con dâu rửa chân là phong tục thể hiện sự thiện chí của mẹ chồng. Có câu “Chân ướt chân ráo mới về nhà chồng” là nói về phong tục này.
(57) Xe Đốt Cát: Loại ô tô khinh xa do Pháp xản xuất được sử dụng cho việc chờ tù.
(58) Tổng Cao xá: là cấp hành chính dưới cấp huyện, trước khởi nghĩa Nông cống có 10 tổng, tổng Cao xá bao gồm 25 làng, làng Vìn thuộc xã Tế thắng nay.
                                                                   Nguyễn Ngọc Minh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét