Thứ Ba, 22 tháng 11, 2016

CÂY ĐA BÀU HUYẾT
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Minh



Cuộc chích máu ăn thề của Nhụy Kiều tướng quân với ba anh em họ Lý Hậu Lộc đang bừng bừng tiếng hô Lệ Hải Bà Vương vạn tuế bỗng tắt lịm. Người lính cồng từ Đại bản doanh Vân Sơn phi ngựa đến cấp báo: chủ soái Triệu Quốc Đạt đã qua đời. Những đống lửa lụi dần, cả dải núi Bồ Điền lặng đi, Nhụy Kiều thúc voi bạch một ngà tức tốc trở về Núi Nưa.
Qua núi Yên Ngựa, một quầng đỏ hắt bóng nhuộm úa dòng sông Nhơm khiến con voi một ngà dương vòi hý vang. Lửa đang hoành hành nơi trại lính tiên cơ, khói cuộn lên ám vào những tảng mây lừ lừ trôi về phía bờ sông. Cả một vùng lau lách oằn mình kém theo những tiếng nổ bôm bốp, tranh cỏ ngún lửa chao liệng trên không rồi rớt xuống mặt sông đen ngòm.
Các tướng quất ngựa bám sát con voi bạch một ngà. Đại bản doanh Vân Sơn sáng rực ánh đuốc, Viên Tổng quản bẩm thi hài chủ soái đang quàn trong chính đường, nghĩa quân mấy vòng tuốt gươm canh giữ. Dưới thềm có hai tên lính đang bị trói gô, trước mặt chúng là một cái túi gấm chưa rõ bên trong đựng gì nhưng nhìn qua ai cũng biết đấy là cái túi đựng đồ quí của những tay nhà giàu có xuất xứ từ bên Hợp Phố!
Lệnh phát tang còn chưa kịp ban thì Triệu Phu nhân tiến ra. Bà ta nói, ở bên ngoài Nhụy Kiều là soái nhưng trong Triệu gia trang, nàng là cô cô. Với trách nhiệm của mình, Triệu phu nhân có bổn phận thay chồng sắp đặt việc gia thất của cô cô. Giọng Triệu Phu nhân trở nên trầm buồn, bà nói rằng chồng bà, huyện lệnh Cư Phong Triệu Quốc Đạt, rất buồn lòng về việc gia thất của em gái chưa thành, bao nhiêu lần than dài với câu biết thưa gửi thế nào khi gặp tổ tiên!
Người mà Triệu phu nhân định gả bán Nhụy Kiều là một tên hào trưởng quê tận Hợp Phố, lâu nay ông ta vẫn qua lại Cửu Chân với hành tung bí hiểm. Hai tên lính bị trói dưới thềm vừa nhìn thấy ông ta đã gập đầu xin cứu mạng.
Vừa lúc ấy, Tổng quản cho người xách vào mấy túi gấm, trong số túi ấy có một cái phải kỳ công lắm mới lấy được từ hậu cung của Triệu Phu nhân. Mọi chuyện thế là đã rõ. Triệu phu nhân cam tâm tròng cái ách con dâu Hợp Phố lên đầu người con gái Quân Yên đang sát cánh cùng anh trai đánh cho quân Ngô thất điên bát đảo.
Nhận được hiệu lệnh của Nhụy Kiều, người lính cồng bay tới, một tay túm bím tóc, tay kia kề chủy thủ vào cổ tên hào trưởng khiến cả bọn đi theo rút kiếm soàn soạt. Tiếng "boong bùm" vang lên, con voi tung vòi quấn một tên lính Ngô tung lên cao rồi quật cây cột, máu óc văng vãi cùng tiếng thét hãi hùng khiến cả bọn chùn lại. Kiếm trong tay các tướng trong đội tùy tòng của Nhụy Kiều vây kín bọn Triệu Phu nhân. Nhụy Kiều dõng dạc: anh trai tôi đã phải chết vì một mũi tên độc của nhà Ngô, bỏ lại sự nghiệp còn dang dở. Phận làm em, tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!
Bà ra lệnh đưa tất cả lũ Triệu phu nhân, tên hào trưởng cùng hai tên lính đốt trại tiên cơ ra trước sảnh đường chém đầu  tế vong hồn chủ soái.
Lại có thám mã về báo phòng tuyến sông Nhơm bị vỡ, quân Lục Dận đã thừa cơ sang sông đánh vu hồi các trại và một đạo quân đang tốc thẳng về đại bản doanh. Tình thế khẩn cấp, các tướng khuyên Nhụy Kiều nên rút về núi Bồ Điền dựa vào ba anh em họ Lý Hậu Lộc dựng lại thế cờ.
Không còn cách nào khác, Nhụy Kiều đành xuống lệnh rút khỏi Nưa Sơn.

***
 
Nưa Sơn bị phá, hành lang phía Tây mở toang, thống soái Lục Dận (cháu của Đại Đô đốc Lục Tốn) đưa quân vào phía Nam tạo thế vây hãm ba mặt Bồ Điền nhưng vẫn không đánh tan được cuộc khởi nghĩa. Không thắng nổi Bà Triệu, Lục Dận lại bị Thái thú Lữ Đại nhiều lần quở trách: tại sao quân đội Đông Ngô được trang bị đầy đủ lại hơn hẳn về kinh nghiệm trận mạc mà tám năm ròng không thắng nổi một đội quân chân đất, chỉ có cung tên giáo mác thô sơ lại gồm cả ông già trẻ con đàn bà con gái?
Câu hỏi nhức nhối ấy Lục Dận đã dụng tâm lý giải. Ông ta không hề coi thường đối thủ mặc dù đối thủ chỉ là một cô gái mới qua tuổi đôi mươi. Cứ nhìn vào phong độ diễm kiều ra trận cưỡi voi bạch một ngà đi guốc ngà mặc áo ngắn màu ngà mà ngay cái tên cũng là nhụy hoa ngọc ngà thì đủ biết người con gái Giao Chỉ này bản lĩnh đến đâu. Ông cũng đã vận Lục Tốn binh thư hàng trăm chước mà vô phương vẫn hoàn vô phương, quân khởi nghĩa mới tan ở núi Nưa đã lại xuất hiện ở núi Bồ Điền.
Ông ta còn để tâm tìm điểm yếu của Nhụy Kiều, một tính cách riêng hay một thói quen có thể lợi dụng, nhưng tất cả chỉ là vô hiệu. Trong quân đội của Bà, từ chủ soái đến nghĩa binh ai cũng đối xử với nhau bằng sự tương thân tương ái, ai có công được thưởng nhưng nếu ai có ý làm phản dù phải diệt thân cũng quyết không tha. Câu nói của bà trước vụ chém đầu Triệu phu nhân và bè lũ trước Vân Sơn đại sảnh cũng đủ thấy Bà là con người đanh thép nhưng rất công minh và vô cùng tinh tế, thật xứng với mỹ danh Nhụy Kiều tướng quân do quân dân Giao Chỉ mến yêu xưng tụng.
Không có điểm yếu nào có thể lợi dụng, Lục Dận chuyển sự chú ý đến cá tính. Nhụy Kiều vốn ưa sự thanh nhã và vô cùng căm ghét thói khả ố, tục tĩu. Ông ta dụng kế tạo ra một trận đánh mà quân lính hoàn toàn lõa thể, nữ binh của Bà Triệu phần nhiều là con gái mới lớn chắc chắn sẽ bị xấu hổ, chờ lúc đường gươm mũi giáo rối gượng sẽ xua quân xông lên bắt sống Nhụy Kiều.
Quân Ngô bày trận khiêu chiến tại Núi Tùng.
Nhụy Kiều tướng quân đã cưỡi con voi bạch một ngà ra trước trận nhưng không hề thấy bóng dáng Lục Dận. Lúc lâu, một đám lính cưỡi truồng láo nháo ngoác miệng gào tên Nhụy Kiều kèm những lời rất tục. Người lính cồng điên tiết trổ khinh công bay tới cho tên to mồm nhất một đao, con voi bạch một ngà cũng quấn một tên lính tung lên dùng chiếc ngà còn lại xọc cho một nhát. Bên khiêu chiến mất mấy mạng mà vẫn không thấy tướng trận xuất hiện, Nhụy Kiều còn đang phân vân thì bỗng nhiên quân Ngô dạt sang hai bên, một đội lính khác trần như nhộng đội hình chặt chẽ đầy đủ gươm khiên lừ lừ tiến bước. Nhụy Kiều không khỏi rùng mình trước sự lố bịch của những nam nhi đại trượng phu từng rạp mình trên yên ngựa khắp miền Lưỡng Quảng mà lúc này dương vật vắt vẻo lông lá loàm xoàm phơi dưới nắng trời. Hành động tiểu nhân đê hèn này của Lục Dận đã phương hại thuần phong lại phỉ báng mỹ tục, cái cốt ngạo của người con gái Giao Chỉ vốn đề cao sự khiết tịnh thanh nhã đã nhắc bà nhớ về cơ đội nữ binh đang làm nhiệm vụ chặn hậu ở Nưa Sơn. Có lẽ các em cũng khó thoát tình thế lố bịch mang nhãn hiệu Tàu Khựa này.
Con voi quỳ, bà bước xuống. Đôi guốc ngà vừa chạm đất thì thanh kiếm trên tay đã bay ngang. Lưỡi kiếm như ánh chớp lia theo hình xoáy trôn ốc, kiếm khí vun vút lóe lên trước hạ bộ của bọn lính Ngô, cái của quý tạo hóa dành cho loài người hưởng lạc khoái để gìn giữ giống nòi bay theo một vòng cung như đàn cóc chết nối nhau xâu vào mũi kiếm Nhụy Kiều.
Vẫn biết rằng binh bất yếm trá, và cũng vẫn biết rằng Trường giang sóng sau cao hơn sóng trước, mà sao Tôn Quyền còn đẩy quân lính của mình vào cảnh tiệt tử tiệt tôn. Một lính vong dương là một họa tuyệt diệt, cả dòng họ ba đời bố mẹ con cháu thành cái gì ai mà không biết. Oan nghiệt lắm! Oan nghiệt lắm!
Có một tên trong đám lính cởi truồng xin Nhụy Kiều ban cho một nhát kiếm. Nó nói rằng, mang danh thằng rụt đầu lê lết nơi phố thị thôn trang cho đàn bà con gái khinh khi thì có khác gì con rùa rụt cổ. Nó cả gan dám hỏi Nhụy Kiều có biết chiêu kiếm tuyệt tử tuyệt tôn ấy, xưa nay dẫu bất thành văn nhưng giang hồ cấm kỵ. Nhụy Kiều hạ cố: đây không phải chuyện giang hồ, đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa của người Giao Chỉ chống lại ách xâm lược phi nghĩa của nhà Ngô các người.
Nhìn lũ phế binh ôm háng máu thất thểu xuống núi, Nhị Kiều dõng dạc: Lục Dận tướng quân hãy nghe đây! Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Đông Ngô đã gieo bao tang tóc xuống đầu dân Giao Chỉ nên hôm nay ta phải thay trời hành đạo. Chiêu kiếm này là lời nhắn, cái họa tiệt tử tiệt tôn các người tự gieo ắt tự chuốc. Truyền đời, nếu một đứa mất giống sẽ lụy bốn đời ông bà cha mẹ vợ con. Về nói với Ngô Quyền, hãy nhìn rõ họa này mà hành xử với lân bang cho phải đạo.    
Nói rồi bà quay sang lệnh cho người lính cồng lập tức trở về Nưa Sơn, truyền các nữ binh dừng tay gươm tay giáo, hãy trở về cấy lúa trồng ngô chăn tằm dệt cửi, lấy chồng sinh con nuôi giữ giống nòi. Bà ngửa mặt lên bầu trời xanh, than rằng cái họa phương Bắc e chẳng thể một sớm chiều mà cất.
Nhưng tâm huyết ấy đã không đến được với những người lính thân yêu của Nhụy Kiều tướng quân nữa rồi. Cả đội nữ binh làm nhiệm vụ cản hậu trên dãy Nưa Sơn đã bị đánh tan. Xác người ngổn ngang, giáo mác, cung tên văng vãi khắp Thung Lau. Đàn quạ hết bay lên lại sà xuống bên những đôi mắt căm hận mở trừng còn in màu hoa lau bạc úa. Nhìn những ngọn giáo trong tay các nữ binh xuyên qua ngực bạn chiến đấu của mình bên cạnh xác những tên lính Ngô trần truồng, người lính cồng đã hiểu: họ phải giúp nhau tự vận vì hành vi ti tiện bẩn thỉu của bọn lính này. 
Thung Lau như chiếc lò xo bị nén. Người lính cồng trèo lên ngọn một cây đa đưa mắt nhìn về bốn phía. Nàng gào lên những tiếng căm hờn, tay nàng điểm hồi cồng truyền lệnh nhưng lệnh của chủ soái chỉ có núi ngàn vọng lại. 
Tiếng cồng tức tưởi đã gọi về những tiếng sét xé trời. Mặt đất nứt ra một cái vực sâu, mưa ầm ập đổ, hàng trăm khe suối tấu nên âm thanh ầm ì như tiếng vọng về từ âm phủ. Nước mưa rửa sạch những thi thể rồi nhẹ đưa tất cả theo làn nước tinh khôi. Đến thi thể cuối cùng thì trời hừng nắng, hàng triệu bông mẫu đơn vốn đỏ như máu bỗng biến thành màu tím, bông nào cũng chĩa nụ lên trời như muốn hỏi điều gì!

***

Vật đổi sao dời, không biết Nưa Sơn đã qua mấy cuộc bể dâu mà nay vẫn còn đó con bàu mênh mang có tên Bàu Huyết. Cây đa trên cái gò giữa bàu cũng có tên là Cây Đa Bàu Huyết. Mặt nước vẫn cái màu tím ngắt không biết là do rừng hoa mẫu đơn soi bóng hay nước trong bàu đã hòa quá nhiều máu trinh nữ chiến đấu dưới cờ Bà Triệu.
Tương truyền, vào những đêm sương mù giăng đậm, núi rừng bỗng ầm ầm cuộn gió. Tiếng hoẵng tác hươu be, tiếng cú rúc liên hồi lẫn vào tiếng con thác dội về nghe như tiếng voi gầm ngựa hí. Giữa trời đêm xuất hiện một khối sáng màu hồng ngọc lướt đi lướt lại trên đỉnh Am Tiên. Khối sáng ấy lúc bừng lên rực rỡ, lúc lẩn khuất phiêu diêu, dân Kẻ Nưa gọi là Con Ngọc.
Con Ngọc là hồn thiêng của những người con gái mười tám đôi mươi đã hy sinh trong một trận chiến rất không công bằng với kẻ thù. Hồn của họ không nỡ bay về trời làm tiên nữ mà ở lại nơi Cây Đa Bàu Huyết chờ Nhụy Kiều kính yêu của họ quay về.
Mùa hè 2014.
Nguyễn Ngọc Minh
-------------------------- 
Lời ngoài truyện
Cây đa Bàu Huyết

Năm 226 Thứ sử Lạc Việt là Sỹ Nhiếp chết. Tôn Quyền nhập Hợp Phố với Lạc Việt thành quận Cửu Chân và bổ Lữ Đại làm Thứ Sử. Con trai của Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy bị truất quyền nối ngôi đã khởi binh chống lại nhưng bị bắt nhốt cũi đưa về Đông Ngô trị tội. Máu thấm sâu chín tầng đất, thây chất cao chín tầng trời, ma khóc quỷ cười, dân Giao Chỉ chìm trong cuộc nam phạt vô cùng tàn khốc. Triệu Thị Trinh và người anh trai đương chức Huyện lệnh Cư Phong là Triệu Quốc Đạt đau nỗi đau trăm họ, đã dấy binh tại Quân Yên (huyện Yên Định ngày nay) rồi kéo quân sang Núi Nưa thuộc huyện Cư Phong (xưa là đất Nông Cống, nay là huyện Triệu Sơn) lập căn cứ khởi nghĩa mà sử sách vẫn ghi là cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
Đấy là thời Đông Ngô hưng thịnh trong truyện Tam quốc. Còn trên đất Nưa Sơn, cách nay trăm năm, sét đánh trúng cây đa bàu huyết, thân cây bị toác ra lộ một chiếc cồng. Người ta đồ rằng đấy là cồng của nghĩa quân Bà Triệu (theo Sách địa chí Nông cống- NXB Khoa học Xã hội ấn hành năm 1998). NNM




Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

LẠI VỀ KẼO KET TRE PHEO...

LẠI VỀ KÉO KẸT TRE PHEO

(Chia sẻ với các bạn thi trượt mùa thi rồi)

Lại về kẽo kẹt tre pheo
Thả mồ hôi tắm đất nghèo quê ta
Tối ngày ngồi chực ngã ba
Thư sinh bạch diện hóa ra ăn mày?

Kết quả hình ảnh cho Chợ lao động

Tú tài của đất nước này
Bạc hơn trâu bạc kéo cày ruộng trưa
Kỹ sư bác sĩ còn thừa
Nữa là cái phận còn chưa có gì?

Trẻ trai ai cũng một thì
Thà không đại học lại đi một đằng
Sự đời nhằng nhịt mắc dăng
Bao chàng tốt nghiệp mòn hàng nước thôi!

Đã là hậu duệ nhất ngôi
Có tiền trăm đút may thời thứ hai
Những chàng thi phận, học tài
Vẫn là chót bảng ngóng dài đợi tên.(*)

Phập phù hai chữ xui hên
Bao nhiêu may rủi mang tên thế thời
Thôi thì muôn sự tại trời…(**)
Thôi thì… cố nở nụ cười đi em
                                                                           2/9/201
                     ------------------- 
                    (*) Cách ngôn thời hiện đại: Thứ nhất hậu duệ, thứ                                 nhì tiền tệ, thứ ba trí tuệ...  
            (**)Truyện Kiều: Cho hay muôn sự tại trời…
       




Kết quả hình ảnh cho Chợ lao động

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2016

CẢM NHẬN

CẢM NHẬN
Về tập thơ “Hát với vầng trăng khuyết” của Nguyễn Ngọc Minh.

Hát với vầng trăng khuyết*
Dịu dàng mà tha thiết
Thẳm sâu da diết trong lòng.

Từ xứ Thanh đến Định Công
Tuổi trẻ thành ông
Qua chiến tranh tận cùng ác liệt**.

Nay bình dị đời thường
Phút giây tĩnh lặng
Vui buồn vấn vương.

Khắc tâm công đức sinh thành
Yêu thương vợ con rất mực
Anh chị em huyết hồng trong ký ức.

Bạn bè tri kỷ tri âm
Nước biếc, non xanh, phong nguyệt hữu tình
Dạt dào đạo lý nhân sinh.

Bao kỷ niệm
Bao cảm rung
Ấp ủ trong lòng những nét đẹp như tranh.

Vầng trăng đã khuyết
Vẫn ánh lung linh
Với nghĩa, với tình
Càng sáng.

Một hồn thơ nhạy cảm, nhân văn.
23/3/2016
Văn Hạnh
---------- 
                * Tên tập thơ
              ** Dựa theo ý của tác giả 

PHÍA SAU NGƯỜI LÍNH
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Minh



Bà Tuận đi nhà thờ từ nhỏ, lớn lên vào công nhân quốc phòng. Sống tập thể, năm nào đến ngày sinh nhật của bố mẹ bà cũng lầm rầm đọc mấy lớp kinh, cầu nguyện cho linh hồn các cụ được an bằng bên Chúa. Trong tâm thức của bà, kỷ niệm sinh nhật là hướng đến tương lai, hoàn toàn khác bên đời, cúng giỗ là điểm lại quá khứ.
Ông Tuận chồng bà vẫn giữ nếp quê nhà, ngày giỗ ông bà bố mẹ, ông thửa rượu hoa trầu quả thắp hương khấn vái. Từ ngày kinh tế khấm khá, ông sai bà làm mâm cỗ mặn, năm nào kiệt lắm thì cũng phải có đĩa xôi hoa cau với con gà luộc, lớp lang cúng bái đầy đủ như sách thọ mai gia lễ. Bà Tuận vẫn làm mọi việc theo yêu cầu của chồng nhưng đến ngày giỗ bố mẹ mình, bà nhất định không đồng ý cúng giỗ. Theo bà, cỗ bàn toàn các món mặn tạp nơi cát bụi trần ai, có gì hay mà phải vái lạy khấn mời bố mẹ vốn là những con chiên ngoan đạo đã được về miền cực lạc bên Chúa!
Mọi năm ông Tuận vẫn mặc kệ bà, nhưng năm nay ngày giỗ ông nội theo lịch âm và ngày sinh nhật bà ngoại theo lịch dương lại trùng nhau nên câu chuyện trở nên căng thẳng. Ông diễu cợt: chẳng cúng được đĩa xôi cho mẹ lại bắt nghe suông mấy lớp kinh, bà cự lại: đời có triết lý của đời, đạo có triết lý của đạo, ông đừng cả vú lấp miệng em mà xúc phạm tín ngưỡng của tôi.
Thực ra, dịp này ông muốn ra mắt hàng phố. Giỗ ông nội là dịp tốt để mời bà con chén rượu kết tình láng giềng mà tính ông đã mời là phải có dăm mâm đàng hoàng, mẹ con cứ mải mê vào kinh với sách thì ai làm mấy mâm cỗ cho ông.
Chẳng nói được vợ, ông bực mình xách túi ra cổng đón xe về nội. Còn bao nhiêu việc phải làm, nào là xin trưởng tộc cho tách chi rồi lên chùa xin sư cụ lá sớ, lên mộ tổ xin năm cái chân hương về làm cốt cho bát hương, hơi đầu mà lời đi lời lại với cái bà hoi động một tí đã Giêsu ma…
Vợ chồng ông mới chuyển từ vùng biển lên. Ngôi nhà hai ông bà đang ở là nhà mới mua, còn chưa làm lễ nhập trạch. Ông bà tuyên bố, nhà này mua cho anh Thanh. Đó là người con trai lớn của ông bà, Thanh mới tốt nghiệp Học viện Biên phòng nay đang  công tác trên biên giới. Người chính danh hành lễ nhập trạch phải là anh Thanh, nhưng không biết anh bận việc gì mà chưa về được. Ông Tuận quyết định năm nay ông thay con làm lễ vì không hộ hành con sao xứng là bố bộ đội. Còn bà Tuận, sợ nhắc nhiều con nóng ruột nên chẳng dám buông thành lời, trong lòng chỉ ước ao có dịp sẽ kể cho con nghe việc ông bắt cúng giỗ như bên đời và nỗi lo phạm phép nhà thờ.
Thà mắng mỏ còn hơn ông cứ lặng lẽ mà đi, bà tủi thân ngồi khóc một mình. Ngôi nhà rộng thênh vốn đã hiếm tiếng người lúc này lại càng trở nên lạnh lẽo. Nỗi vắng vẻ làm bà Tuận bã bời gan ruột, tầm non trưa thì bà sợ nên đạp xe định đi ra chợ cho khuây. Khi ngang qua bưu điện, cô nhân viên gọi bà lại buôn chuyện hôm qua con bé cháu ngoại bà được mẹ nó đưa sang gửi trông hộ đi đâu một tí, nó nói rằng nó chỉ mong bác Thanh nó về để đưa đi chơi. từ bao giờ mà ứ thấy bác về, còn ngọng líu mà tuyên bố xanh rờn bác cháu mà lấy vợ cháu sẽ có chị bé... Nhà cô ở bên cạnh nhà con gái bà, dạo ông bà chưa lên đây Thành vẫn hay đưa con bé sang gửi nên nói chuyện với bà rất thoải mái tự nhiên. Nẫy giờ có mấy phút mà cô khen bức ảnh anh Thanh mặc lễ phục vừa đẹp vừa oai mấy lần làm bà Tuận sướng quá cứ cười theo. Vừa cười với cô nhân viên bưu điện đấy bà Tuận đã lại thẩn thờ nhìn về phía núi xa mờ, hình dung con trai đang đi tuần cùng đồng đội trên đỉnh núi mù sương. Hình như đã hết cách làm cho bà Tuận khuây khỏa, cô nhân viên đề xuất đánh hộ bức điện xin cấp trên cho Thanh về.
Về đến nhà bà Tuận mới hỡi ôi, mình có ốm đau gì đâu mà nói dối con là ốm nặng. Nhớ lại từng chữ trong bức điện “Mẹ ốm nặng, về ngay”, bà giận mình đã quên lời hứa cố gắng giữ gìn sức khỏe. Đạp xe ra xin lại nhưng bức điện phát đi rồi, cô nhân viên còn an ủi: chắc thủ trưởng sẽ cho anh Thanh về thôi, mẹ ạ. 
Càng nghĩ bà Tuận càng hoảng. Nhìn tượng Giê su chịu nạn trên giá mà bà ân hận, lời Cha răn dối trá là hành vi của quỷ Giu Đa được nghe giảng từ ngày mới theo người lớn vào nhà thờ mà sao hôm nay mây đen làm bà u tối, tiếng xe chạy ngoài đường không át được tiếng lầm bầm, day dứt: tội lỗi quá, tội lỗi quá. Nỗi khát khao được giãi bày lên Cha, được nghe lời khuyên của người thay mặt Đức chúa lòng lành như liều thuốc an thần cho cái đầu sắp bị nổ tung đã xui khiến bà vội vàng khóa cửa khóa cổng ra đường đón xe về xóm đạo.


***

Quê bà Tuận là vùng đạo toàn tòng, làng nào cũng có nhà thờ và Ban trị sự, các thế hệ giáo dân chung tay xây dựng một nền nếp sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng rất chỉn chu. Mấy năm nay con chiên xóm đạo và con cháu ở nước ngoài thành tâm công đức, ngôi nhà của Chúa được tu bổ đẹp đẽ, khang trang.
Cha chiều lòng bà Tuận đường xa, dừng việc lại để nghe. Giọng Cha du dương: vì nông nổi mà con đã làm con trai và đồng đội phải bận lòng. Chúa lòng lành sẽ tha thứ cho con. Chúa luôn ở trong con nếu lòng con đủ sáng trong để không rời xa Chúa. 
Việc xin mấy lớp kinh cha cũng sẵn sàng. Cha còn vui vẻ khuyên ráng chờ đến tối thứ bảy này nhân lễ Sam Bát, bà con sẽ cùng cầu nguyện cho linh hồn cụ được an bằng bên Chúa!
Rời xóm đạo đi công nhân quốc phòng rồi theo chồng về ở vùng biển đảo mấy chục năm, hôm nay bà mới có dịp quẩn quanh dưới chân Chúa, nơi bà được chăn dắt thuở ấu thơ. Những ông bà ngày xưa trong dàn đồng ca gặp lại tay bắt mặt mừng, họ nhắc về những phút giây trang nghiêm, tất cả cùng quỳ trước tượng Giê su, cùng cất tiếng amen âm vang dưới những mái vòm.

***
Từ ngày con gái tên là Thành theo chồng về phố, hai vợ chồng ông Tuận vẫn ở ngôi nhà giữa những đảo thông bên bờ biển. Thứ bảy tuần nào bà cũng một mình một mủng chèo vào nhà thờ trong Đảo Lớn, đã có lần bị gió đánh dạt sang bờ bên kia nhưng đến thứ bẩy tuần sau bà vẫn đi. Ông lo sóng gió thất thường đã thửa cho bà một góc đọc kinh tại nhà nhưng bà vẫn muốn hòa cùng mọi người nghe lời Cha giảng.
Dự án du lịch ôm trọn vùng biển đảo với cả những đồi cây của nhà ông, đất và cây được đền bù một số tiền đủ cho hai người sống đến hết đời. Vậy mà hai ông bà lại sinh lắm chuyện. Ông muốn về quê nội cho gần chùa gần họ tộc, mua đất làm nhà mua cả đất xây khu lăng mộ, rước đủ trên dưới chín đời về nghĩa địa gia đình xum vầy bên nhau. Bà lại đòi về quê ngoại để được gần nhà thờ, gần các bạn cùng dàn đồng ca từ ngày còn là thiếu nữ, ý kiến nào của người này cũng bị người kia phủ nhận, duy mỗi việc dành cho vợ chồng cô con gái một khoản tiền mua ngôi nhà trên thị xã là hai ông bà không cãi nhau.  
Nhận được điện của bố, vợ chồng Kiên Thành bế con về. Vừa bước khỏi lợi cát trước nhà, Thành đã bốp chốp: mẹ chỉ loay hoay với những đức tin huyền bí, việc lớn thế này mẹ phải nghe theo bố chứ! Mà bố thì suốt ngày chỉ lo mồ với mả, sao không lo cho hai cái thân già…
Ông Tuận nhìn con: có bao nhiêu chín chắn thằng anh nó giữ hết mất rồi. Kiên nhận ngay ra thái độ bố vợ nên xui con gái ra xin ngoại cái càng cua rồi ghé vào tai vợ: bố mà bực lên thì đi đứt. Thành hỏi bây giờ phải làm thế nào nhưng Kiên chỉ còn biết sắm nắm lấy bia lấy tương ớt. Ngại bố nên Kiên nịnh mẹ chọn cua sành thật đấy, con nào cũng chắc nịch, hôm nào mẹ dạy nhà con cách hấp mà húp nước vừa thơm vừa ngọt thế này mẹ nhé. Ông Tuận vẫn chẳng nói gì, Kiên bí quá phải quay sang bình phẩm món tương ớt. Cua này phải đi với tương ớt chính tay mẹ làm mới hợp, ngọt ngọt chua chua lại thoảng mùi xoài, thế này thì chỉ cần tám cái cẳng cũng đánh gục lon bia Hà Nội…  
Không biết Kiên sẽ lấy gì mà tán tiếp nếu ông Tuận không e hèm: hai đứa tìm mua một căn nhà vừa ý, hết bao nhiêu ông sẽ chuyển trả qua ngân hàng khỏi phải mang tiền mặt đi đường cách rách. Hình như việc cho con một khoản tiền dù lớn đến mấy ông cũng cho là không quan trọng nên quay sang nhắc bà Tuận mua thêm mấy xâu cua cho Kiên xách về "để lũ chúng nó rả rích với nhau". Chúng nó đây là lũ bạn của Kiên, lần nào về thăm ông bà vừa cặp lợi nước đã oang oang vòi ăn. Ông cười, uống bia Hà Nội với cua hấp sả được không thì cả bọn vừa bố già muôn năm vừa lỉnh kỉnh ôm xách những thùng những túi, có đợt chúng nó mang quà thành phố về biếu ông bà dùng hàng tháng chưa hết.
Tính ông Tuận, ăn uống là phải thật no thật say. Ai chưa say ông xùy cho một cái: chỉ phí công mẹ chúng mày pha nước chấm, còn ai chưa no thì ông bắt húp liền ba tô cháo ngán. Ông bảo cháo ngán rất bổ, ăn vào cho lợi sức mà công tác. Cả lũ răm rắp nghe ông đến nhẵn mâm mới đứng dậy.
Kiên có ý đưa bố mẹ vợ lên thành phố nhưng hôm nay vợ anh trót dại mồm, anh ngại chưa dám nói. Về Thị xã, anh mời các bạn tới, mấy anh em bàn bạc ngôi nhà phải tọa lạc nơi có nhiều cây cối, phải có hồ nước phía trước với con mương hay đại loại một dòng chảy phía bên trái thuận chiều kim đồng hồ với hướng nhà cho hợp phong thủy. Vừa may khu đô thị ngoại vi đang mở bán, Kiên đặt tiền giữ lốt một căn biệt thự rồi đi đảo Tuần, tính vận động các cụ.
Đã có một anh bạn đi hộ lời mà Kiên vẫn hồi hộp như lần đầu về đảo Tuần ra mắt. Thành ở nhà lại càng lo, bố dạo này khác tính nên khi có điện thoại Kiên báo mới đạt yêu cầu năm mươi phần trăm, nỗi lo của cô càng tăng. Chiều hôm sau, khi cả hội xúm quanh rổ ốc nhẩy bà Tuận gửi lên, Kiên mới giải thích năm mươi phần trăm là uống mới hết nửa số bia chứ vấn đề ông bà được gần con cháu làm gì phải nói nhiều. Chém gió thế thôi chứ hôm ấy dồi dắng đến lon thứ tư thứ năm gì đấy hai anh em mới mở được lời, lúc đầu ngúc ngắc nhưng đến khoảng lon thứ mười thì câu chuyện trở nên khó phanh. Khi ông Tuận hỏi cháu có ngoan không, Kiên thưa hôm ở đây về con bé bị dị ứng cặp nhiệt sốt đến ba bảy độ một, ông Tuận chẳng quan tâm ba bảy độ một là bao nhiêu, nghe cháu bị sốt là ông quát om cái con Thành đoảng quá, xe máy lạnh mà không quàng khăn giữ cổ cho nó. Ông xót xa về nỗi cháu ông còn bé mà mỗi lần về ngoại phải chịu cảnh đường xa biển trời sông nước thì anh bạn gợi chuyện: bác Thanh nhà mình từ biên giới về phải qua bao nhiêu là núi rừng, gần đến nhà còn phải vượt sóng vượt gió, mà biển khơi có phải lúc nào cũng yên ả đâu với câu bình luận người lính thời nào cũng khổ. Ông Tuận lặng đi. Đã qua mấy cuộc chiến, ông dễ dàng hình dung khi biên giới có động, giọt máu đầu tiên rơi xuống là máu của các anh bộ đội biên phòng như con trai ông. Biết bố đang xót cháu thương con, Kiên ghé tai chi bằng bố mẹ lên phố, bác Thanh đi phép được ngắn thêm quãng đường mà các cháu chạy sang ông bà cũng chỉ mất một đoạn phố!  
Không biết ông Tuận đã ừ lúc nào mà anh con rể cứ mở bia pùm pụp chúc mừng sự sáng suốt của bố vợ.

***


Khi ông thầy làm lễ nhập trạch đã ra về, bà mới kể với ông về những ngày mình về xóm đạo. Tôi sáng ra rồi ông ạ, cúng giỗ ông bà cha mẹ là phong tục của người Việt chứ đâu phải của riêng ai mà tôi cứ hơn thua với ông. Thôi, những gì ông phiền lòng bấy nay, ông bỏ qua cho tôi nhé!
Ông Tuận nghe đấy nhưng trong bụng vẫn cho rằng nhờ lá bùa trấn nghịch ông thầy vừa yểm, bà vợ ông mới thay đổi tính nết. Còn bà vẫn say sưa chuyện xóm đạo: dưới ngoại bây giờ nhiều nhà đã sắp ban thờ thắp hương như bên đời, chuyện cúng giỗ cha mẹ là sự tùy tâm, không ai ép buộc ai nên mọi người vui vẻ, cuộc sống ấm cúng lắm ông ạ.
Khi bà xin đến hôm giỗ ông nội, ông cho mẹ con chúng tôi đọc cho bà ngoại mấy lớp kinh, ông Tuận không ừ cũng không phản đối, bà cười mà hai giọt nước mắt lăn trên gò má.
Trong bếp, Thành và cô nhân viên bưu điện rúc rích nháy nhau mỗi khi hai ông bà ngóng ra đường ô tô, chắc các cụ hy vọng chuyến xe muộn sẽ dừng và anh Thanh bước xuống.
Hà Nội- 20/10/2016


Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2016

Giữa hòa bình...

Giữa hòa bình anh hiến máu trẻ trung…

Những năm đầu 60 của thế kỷ trước, có một chuyên nói ra e buồn cười, đám học sinh cấp Ba chúng tôi nhiều người đã mang bài thơ Đáng sống… của cụ Lưu Trùng Dương vào cuộc chiến:
Những chiến sĩ chon von trên chòi cao biên giới
Chân đạp mây bay, tóc vớn gió núi
Ngày mù sương tơ tưởng một bến đò
Đêm sáng trăng khao khát những vần thơ
Nhưng anh lên đây ấm rừng vui bản
Rừng núi nâng niu bàn chân vạn dặm
Gọi tên thổ phỉ trở lại làm chồng
Giữa hòa bình anh hiến máu trẻ trung
Ghì đất nước trong vòng tay không mỏi…  
Đối tượng ngợi ca của bài thơ là anh em công an vũ trang tức bộ đội biên phòng ngày nay, thời gian của bài thơ là những năm hòa bình sau chiến thắng Điện Biên Phủ (trên miền Bắc), còn chúng tôi, mọi tư tưởng tình cảm hướng tất cả về cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Năm 1965 tôi đi bộ đội rồi vào chiến trường, đến 1975 may mắn còn sống được hưởng hòa bình, nay xót các anh em bộ đội không quân gặp nạn mà nhớ bài thơ trên.
Thiết nghĩ, hy sinh là một đòi hỏi mà người lính thời nào cũng vậy, phải chấp nhận dù quá khắt khe và tàn nhẫn, trong chiến tranh cũng như lúc hòa bình. Nhưng, những sự hy sinh tính mạng trong hòa bình bao giờ cũng tạo nên hiệu ứng rung chuyển đến tâm can. 
Tiếc nuối, cảm phục, tự hào và nhớ lại bài thơ với một cuộc dấn thân là tình cảm của tôi lúc này.
Chiến tranh đã lùi xa hơn 40 năm, hòa bình đã ăn sâu vào nếp nghĩ, cách làm và cả sự ăn chơi, ai cũng đang hối hả làm tiếp những dự định của mình để một thành hai, hai thành ba nhưng 10 anh em không quân tuổi trẻ đã hóa thành mãi mãi. Trong đau đớn xót thương vô hạn, 90 triệu trái tim Việt Nam chắc ai cũng rưng rưng:
Giữa hòa bình anh hiến máu trẻ trung
Ghì đất nước trong vòng tay không mỏi
Xin khắc hai câu thơ này vào lòng và trên mộ các anh trước dòng Tổ quốc ghi công.

18/6/2016- NNM

Thứ Năm, 26 tháng 5, 2016

Lão Ki

LÃO KI 
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Minh
Lúc đói nghèo người ta gọi lão là Đậu Đắc Phú nhưng khi đã xở xoay đủ kiểu rồi khá lên, người ta lại gọi lão bằng cái tên rất hãm: lão Ki.
Lão Ki có bằng kỹ sư nông nghiệp được đào tạo theo tiêu chí thời lão là trang bị kiến thức với diện rộng tối đa cho sinh viên. Không biết cái diện rộng tối đa ấy rộng đến đâu nhưng môn học nào lão cũng thấy mới, cái gì cũng lạ cũng cần cho việc xóa đi những mò mẫm trong cách trồng lúa của người nông dân quê lão. Kết quả sau những năm ăn đói mặc rét cày như trâu là một tấm bằng đỏ và một tờ quyết định biên chế về phòng nông nghiệp của một huyện vùng cao.  
 Công việc đầu tiên của anh cán bộ phòng nông nghiệp huyện vùng cao này là học cách phát cây, đốt nương, chờ mưa xuống dùng gậy vạt nhọn đầu chọc lỗ trỉa hạt, mà cũng chỉ trỉa hai loại lúa hoặc ngô. Công thức “phát đốt chọc trỉa” phủ kín và đóng gông mọi nếp nghĩ, mọi cách làm, đã thành phong tục tập quán, được coi như thuần phong mỹ tục nên bao nhiêu ý tưởng đổi mới của lão đều bị đồng bào lắc đầu. Lão bất lực trong việc chuyển giao kiến thức còn vì một lẽ khác: đồng bào biết bập bõm đôi tiếng phổ thông chứ lão thì mù tịt tiếng dân tộc của họ.
Qua vài mùa mưa, lão bị sốt rét mặt xanh như tàu chuối, da bọc xương còn hơn bốn mươi cân, tay lỏng khỏng vịn cây gậy lê đôi chân phù thủng. Hết đợt sốt rét thứ ba, lão không lên lại phòng nông nghiệp nữa mà ở nhà phụ vợ theo công điểm hợp tác xã.
Lão đành phận làm thằng đào ngũ nhưng ông trời vẫn bắt lão phải long đong. Ngay tại ngôi làng mình sinh ra lớn lên rồi vào đại học, lão những tưởng cùng họ cùng làng bà con sẽ nghe theo nhưng khi mới cất lời về quy trình gieo mạ, lão đã nhận được những cái bĩu môi: không phải dạy đĩ vén váy. Bố mẹ lão cũng tuyên bố thẳng thừng: đừng có mà lý thuyết sách vở, chúng tôi đã cấy lúa trồng khoai từ lúc anh chưa có rồng rồng.  
Lão bị cô lập đến thảm hại, nguy cơ cái danh kỹ sư trồng trọt sắp buông lão đã nhỡn tiền. Vợ lão kiệt lực chữa bệnh cho lão nay lại thêm mấy đứa con lít nhít, chữ nghèo bị gắn thêm chữ đói, lão đành thi triển cái nghề học mót từ ngày chưa vào đại học: đi hoạn lợn, thiến bê rong. Lần đầu tiên cất tiếng rao “ai hoạn lợn thiến bê” mồ hôi lão vã ra dính bết áo lưng, làm xong nghe người ta hỏi lấy công bằng tiền hay gạo mà mồm lão ngượng cứng không mở ra được.
Múa may qua ngày kiếm cơm, ai ngờ cái nghề lang thang rao vặt kiếm mấy bò gạo đổ nồi bén vào lão từ lúc nào. Còn nhớ con bê đầu tiên lão thiến, anh chủ bò không đồng ý tiêm thuốc tê nên nó đau nó dẫy ghê quá, lão loay hoay bóc được đôi cà rồi xoa gãi vỗ về mãi nó mới chịu đứng yên để khâu cái bìu dái lại. Thế mà nay lão được tiếng mát tay, có người lần đến tận làng tìm “Ông Phú hoạn lợn, thiến bê”. Lão tủi hổ lắm. Những kiến thức trường đại học đã quàng lên tên tuổi lão một học vị nhưng bây giờ lão lại phải kiếm ăn bằng cái nghề mà bất cứ anh thất học nào cũng làm được.
Lão Ki là một trí thức chẳng gặp thời mà cũng không gặp vận. Thời của lão ruộng đất tích tụ với quy mô Hợp tác xã con người bị cưỡng bức đủ điều, đến hít thở cũng là không khí sản xuất lớn tiến tới thế giới đại đồng. Mỗi Hợp tác xã may lắm mới có một người như lão nhưng sự thật lão đã thất nghiệp. Điều đó chỉ có thể giải thích bằng vận lão đen mà thôi. Mà cái vận đen của lão mới toàn diện làm sao, miền xuôi không được mà miền ngược cũng không xong, lão là con ốc văng ra khỏi cỗ máy ù ì dỉ sét nhưng không ai chịu ghi nhận nó đã từng là một thành tố của bộ máy đó.
Lão lọc cọc đạp xe đi Thái Bình mua lại của anh bạn cùng khóa mấy yến thóc giống cao sản về bày cách cho bà con cấy giống mới. Tay Đội trưởng quyết ngăn lại: giống là khâu quan trọng, đứng hàng thứ tư trong nhất nước nhì phân… không ai được tùy tiện thay đổi khi chưa có lệnh của Chủ nhiệm. Hàng chục năm nay cứ lên kho mà nhận, chẳng phải hỏi giống gì, năng suất thấp hay cao, rồi đem về giao cho mấy lão nông ngâm ủ. Tiêu chuẩn để được tôn vinh lão nông là người ấy đã làm đi làm lại việc ấy nhiều lần, đừng nhắc họ về ba sôi hai lạnh hay phân gio gì gì mà chỉ cần hỏi có nhớ cách làm của năm ngoái năm kia không! Đến ngày có lệnh xuống đồng là đồng loạt nhổ mạ ra cấy, ai cũng bảo mất gì của “Hợp” mà trong lòng đắng nghét cái điều ngược lại: được gì của “Hợp”!
 Mọi người cứ theo kẻng mà vung, theo trống mà rải, anh chàng kỹ sư trồng trọt bị ra rìa, ý tưởng đem kiến thức đại học về giúp quê hương được đáp trả bằng những lời vừa như trách vừa như khuyên: sao không chịu khó nhịn vợ một tuần mấy tối mà bám lấy đồng lương cán bộ, mưa chẳng đến mặt nắng chẳng đến đầu.
Đến khi có ruộng khoán, vợ con lão đã nhất nhất làm theo cách của lão, lúa ruộng nhà lão tốt hơn ruộng người. Bứng mạ trên sân mang ra khẽ khàng đặt xuống, bùn ruộng nhuyễn mịn đón bộ rễ như chưa hề có sự chuyển dời địa lý nào nhưng vụ ấy các quy định của Hợp tác xã đã hại lão. Rễ lúa nhà lão cứ mải mê hút màu, lá lúa cũng mải mê bắt ánh sáng mà quang hợp, cây lúa phơi phới tươi xanh đã kéo dài thời gian sinh trưởng thêm mấy ngày nên chậm đơm đòng mất mấy hôm. Tất nhiên lúa chín cũng chậm mấy hôm, chung quanh người ta gặt hết, chuột và châu chấu bu vào ruộng nhà lão, con thì cắn dẻ con thì búng càng, lúa rụng vàng trên lớp bùn se. Vợ con lão vừa gặt chạy vừa cằn nhằn, còn lão, đã xót bồ thóc nhà mình vơi hơn của người lại phải ù tai với bao lời mỉa móc. Những kẻ đã từng ghen tị với anh học trò trắng mặt nay lại được dịp rêu rao lão Ki chỉ giỏi múa miệng, không những thế còn hả hê tuyên bố cần quái gì những lý thuyết đẩu đâu. Tay Đội trưởng bài xích cái bằng kỹ sư của lão bằng một câu học lỏm: thực tiễn mới là thước đo chân lý.
Càng đau càng không chịu bó tay, lão bắt vợ con bớt mỗi bờ mấy hàng lúa vược bùn lên trồng các loại hoa để nhử thiên địch về tiêu diệt bọ rầy. Nhưng chỉ mảnh ruộng nhà lão thì ăn thua gì, lão lại thất bại. Năm sau lão thay cây hoa bằng cây thuốc lào, mấy nhà thấy trồng thuốc lào còn thu được lá nên miễn cưỡng làm theo. Ong bướm quyến về nhiều hơn, tác dụng diệt bọ rầy hiệu quả rõ rệt, những kẻ ganh ăn mượn hình ảnh lão quẩy đôi quang với hai cái thồi lượn hết làng mình sang làng bên gắp phân chó mà đặt vè: Kỹ sư nay đã đứ đừ /Hai thồi phân chó ngất ngư khắp làng…
Họ có biết đâu cái anh thuốc lào rất ưa phân chó, thứ này trộn với phân bắc ủ cho hoai mục bón gốc cây thuốc cho lá vừa to vừa dầy, thái phơi nom sợi vàng như tẩm mật ong, hút vào nhuận khói chỉ muốn kéo thêm điếu nữa.
Lão cắm bốn cọc tre cất mái tranh làm cái quán bán thuốc lào ở góc đường, hương thuốc với bát nước lá vối khuyến mãi đã kéo khách đến chật mấy băng ghế ghép bằng bìa gỗ. Tiền bán thuốc lão sai vợ gom thóc chờ giáp hạt tung ra kiếm lãi chục ăn mười lăm, nhà lão trúng liền mấy vụ nhưng kỳ lạ thay, cái tên Đậu Đắc Phú biến mất, người ta thay tên mới cho lão là Lão Ki.
Kết quả hình ảnh cho hút thuốc lào

Ki thì Ki, lão nghe thấy hết nhưng mặc kệ. Thóc bây giờ dù tháng ba ngày tám cũng không còn chênh lệch giá như trước kia nên lão bắt vợ con chuyển sang nuôi gà vườn và lợn nái, phân lợn phân gà tuồn theo nước rửa chuồng xuống ao cá, một vòng khép kín bắt đầu từ những bánh thuốc lào. Kinh tế nhà lão cứ thế mà lên nhưng vẫn còn những người mở miệng là diễu lão kiboketlo.




Lão Ki lim dim phán rằng: cứ nhắm mắt tung bừa phân hóa học và phun đẫy thuốc sâu, đất sẽ chai cằn cá tôm tuyệt diệt, dân bỏ làng ra phố làm cửu vạn, bờ xôi ruộng mật thành hoang mạc, đến lúc ấy thì đừng mong sống bằng cây trồng, nghề trồng lúa nước sẽ lụi… nghe như sấm Trạng Trình.  
Trạng Trình đã chết từ lâu, những người hay mang lời ông ra làm chuẩn mực soi rọi mọi việc trong thiên hạ cũng đã thay nhau về nơi chín suối, giờ đây lớp cháu chắt của họ từng vỗ ngực quyết làm chủ thiên nhiên, nghĩa là làm chủ mưa gió, tan băng hay hiệu ứng nhà kính, đã bất lực không tìm cách chế ngự để sống chung lại xoay sang tìm mánh ăn đất, không mấy ai chịu để tai nghe lão Ki.
Trong số ấy có một người trình độ xếp vào hàng đầu từ dưới lên là chị Quán.
Phải nhắc đến chị Quán là vì chạng vạng chiều hôm ấy lão Ki đến nhà chị. Lão chỉ đứng trước thềm có một phút, hỏi đúng một câu thằng Quân đã về chưa rồi ra về mà chị hoảng hốt gọi điện thoại cho chồng bảo anh phải về ngay. Hiện tượng bất định tâm thần này của chị Quán có nguyên nhân từ một sự tích cách đây hơn bốn năm, đận ấy nhà chị đã phải bỏ ra bao nhiêu tiền mà anh Quán vẫn bị công an bắt giam một tuần vì cái lão Ki lắm chữ ranh như con cáo.
 Hôm ấy anh Quán đưa thằng Quân nhập trường về đến đầu làng ghé vào quán lão Ki hút nhờ điếu thuốc, bị lão xì đểu ngu mới vào đời từ Đại học Nông nghiệp.
Lúc đầu anh Quán chẳng để ý nhưng sau nhận ra lão Ki chửi mình chứ trong quán còn có ai đâu. Chửi anh ngu đã quá lắm đằng này lại chửi ngu cả cậu con trai vừa được anh đưa vào lò luyện cao cấp thành bác sĩ thú y thì không thể chấp nhận được. Anh gằn giọng hỏi ông bảo ai ngu, lão Ki ngó lơ bầu trời bâng quơ ai ngu bốn năm sau khắc biết. Thế là, sẵn ống điếu anh phang vào cái đầu gối lòi ra dưới ống quần xoóc lửng của lão.
Ông điếu vướng xâu bánh chưng treo lủng lẳng không tới được đầu gối lão Ki nhưng nước điếu thì đã xối đẫm bộ sơ mi quần bò đang mặc trên người anh Quán. Mặt chõng cũng bị chan mấy lớp cái thứ nước trứ danh đỉa thả vào cũng chết, lão Ki nhăn mũi nhặt từng thanh kẹo lạc, từng cái bánh rán hít hít rồi ném xuống hộp đựng rác dưới gầm chõng…
Hôm xã triệu tập, anh Quán nộp mấy chục nghìn tiền phạt vi phạm nếp sống văn hóa, đền mấy trăm nghìn tiền chõng hàng dính nước điếu nhưng quyết không xin lỗi. Chắc lão Ki lại đâm đơn lên công an Huyện nên anh bị triệu tập ròng rã một tuần giời để viết đi viết lại mấy câu giải thích rằng cái ống điếu chưa tới đầu gối lão Ki.
Chuyện căng thẳng hai nhà đến nay đã bốn năm rưỡi có lẻ, Quân tốt nghiệp đã đi làm cho một nông trại trên Vĩnh Phúc, thời gian học của Quân cũng là bốn năm rưỡi ứng với câu bốn năm sau khắc biết của lão Ki nên chị Quán hay rơi vào trạng thái tâm thần bất định.
Sau khi gọi cho chồng, chị gọi gấp sang bà ngoại nhưng cậu mợ thằng Quân nhất quyết không cho bà sang, chị làu nhàu sao mẹ lại ốm lúc này rồi gọi cái Quỳnh chị gái thằng Quân bế con sang.
Cổng trước cổng sau, chỗ nào cảm thấy khóa không chắc chị bổ sung thêm cái khóa dây xe đạp, hiên nhà trên hiên nhà dưới sáng choang, hai cái bóng điện compac treo ngoài ngõ cũng được bật từ lúc lão Ki vừa khuất dạng nhưng từ đầu làng đến cuối làng chỉ có tiếng ti vi nổi trên nền gió rì rào. Nhà ai cũng mải dõi theo cuộc đời cậu Lâm cô Hoài trong phim Mạch ngầm nơi biên ải để thương nhớ những đứa con phiêu bạt kiếm tiền. Lão Ki không đến thêm lần nào nữa, hai con chó chạy loăng quăng một hồi rồi ra thềm nằm gác mõm trên đôi chân, không rõ để sẵn sàng lao vào nơi nào có động hay đã ngủ quên.
 Hôm sau, anh Quán về đến nhà lúc non trưa thì chiều muộn thằng Quân cũng về. Cả nhà ngồi ăn cơm, cái Quỳnh bế con đến ngủ với mẹ từ tối hôm qua giờ thêm anh chồng mới phóng xe sang, già trẻ lớn bé sáu người, vừa ăn vừa dỗ thằng cu chưa đầy năm, vừa bàn luận phỏng đoán xem âm mưu của lão Ki là gì.
Chuyện càng bàn càng bí rì. Khi anh con rể đã chở vợ con về nhà, thằng Quân đã chui vào màn ngáy vang, anh chị Quán vẫn chưa làm sáng tỏ mục đích đến nhà của lão Ki. Không biết lão sẽ còn những chiêu trò gì nữa đây, càng nghĩ càng lo đứa con trai duy nhất không khéo lại đặt chân vào những lốt chân của lão thì tương lai sẽ đen như mõm chó mực.
Hết giả thuyết này đến giả thuyết khác, hai vợ chồng cứ nêu ra rồi phủ nhận cho đến khi anh xoa tay lên bụng chị mới nhớ đợt này vợ chồng xa nhau đã nửa năm rồi.
Trong lòng anh Quán ngổn ngang những câu hỏi và câu trả lời, câu nào cũng như hũ nút. Anh tặc lưỡi: mặc kệ nó, cái gì phải xảy ra thì nó cứ xảy ra, nếu không xảy ra thì nghĩ lắm cũng chẳng làm được gì. Anh còn trấn an chị Quán: thằng Quân sẽ biết cách xử lý, chúng nó bây giờ được học hành tử tế chứ đâu phải đám nông dân kiêm cửu vạn toàn tập như mình?
Nghĩ đi thì vậy nhưng nghĩ lại anh vẫn tức lão Ki. Cũng là sinh viên Đại học nông nghiệp Một, học trước thằng Quân bốn mươi năm hẳn nhiên lão là tiên sinh đối với nó, trồng trọt và thú y tuy khác khoa nhưng vào trường ra trường anh nào chẳng phải chui qua cái vòm đa-ho-en-en-năm-bờ-oăn (ĐAHONN.1)…
Anh chị Quán đã không biết rằng lần nào về thằng Quân cũng vào quán lão Ki uống nước vối. Biết lão nhớ trường, vẫn ước ao một lần trở lại thăm thầy thăm cô thăm giảng đường mình đã từng thụ giảng nên Quân ghé vào kể cho lão những đổi thay. Nó ví cái thời người ta khinh nhờn kiến thức khoa học kỹ thuật vì cơ sở hạ tầng chưa sẵn sàng, ở một góc độ nào đấy có thể lấy câu chuyện "Con cáo và chùm nho" để lý giải… Lão Ki rất thích cách ví von này, là bạn đồng môn nên Quân hiểu lão, so sánh trí tuệ lão với thứ quả quý là chùm nho thật đáng hậu sinh khả úy. Lão bộc bạch: bây giờ đố anh nào nuôi con gà con lợn mà dám coi thường bác sĩ thú y. Kiến thức cơ bản tốt nên lão nhạy bén nhận ra chủ trương cho nông dân vay vốn để lập trang trại tăng đàn gia cầm gia súc là cơ hội ngàn vàng của nông dân. Ngân hàng bắt buộc cơ sở phải có bác sĩ thú y cũng là cái khôn bằng trời của họ, không có chuyên gia theo dõi ngộ nhỡ gặp dịch phải tiêu hủy hàng loạt, bấu vào cái gì mà đòi nợ.
Chỉ ngặt nỗi bằng của lão lại là kỹ sư trồng trọt!
Sáng nay lão Ki đến sớm. Chị Quán ngồi dưới nhà ngang với lên hai tiếng không dám đáp lời chào, anh Quán đang dở tay sửa cái vòi nước cũng vọng vào một câu giữ phép. Quân pha trà mời khách rồi xởi lởi kể chỗ nó làm, ông chủ nuôi một ngàn lợn và hơn chục vạn gà vịt, nội việc khám tiên liệu và tiêm phòng đã phải làm cả ngày nghỉ. Nó tưng tửng sao người ta làm được ông chủ còn mình lại giữ phận làm thuê.
Lúc anh Quán vào, lão Ki dừng chuyện quay sang xin lỗi về cái vụ cách nay đã hơn bốn năm. Lão nói hôm ấy lão hận đời rồi chửi mình, tức là lão tự chửi lão chứ có dám chửi ai đâu. Để anh hiểu nhầm là thiếu sót của lão, còn việc công an gọi lên là do chương trình bình yên cơ sở của họ chứ lão không hề làm đơn như người ta đồn thổi. Hôm nay lão đến, trước là để xin lỗi sau nữa là xin được bàn với ông bà và anh Quân bác sĩ, hai nhà góp sức mở trại chăn nuôi.
Lão gọi vợ chồng anh Quán là ông bà, gọi thằng Quân là bác sĩ, trước khi trình bày còn nhắc lại chuyện đã qua thì nên cho qua.
Kế hoạch của lão Ki là gom ruộng bỏ hoang của những người đi làm ăn xa để khoanh vùng đổi thửa cấy tám thơm và cất chuồng trại chăn nuôi gà vịt, cái nọ hỗ trợ cái kia kết hợp khai thác kinh nghiệm sản xuất hai nhà. Anh Quán và thằng Quân luôn mồm khen hay nhưng đến việc vay vốn ngân hàng thì ngắc ngư…  
Chị Quán cũng ngắc ngư nhưng không phải vì chuyện vay vốn. Vấn đề là chị không muốn hợp tác với lão Ki. Ký ức còn dầy như màn sương che phủ, dù biết số phận lão Ki do thời thế tạo ra nhưng chị vẫn không muốn đứa con trai độc nhất của mình lại dính dớp xuôi không được ngược không xong.
Ôi chao là cái cổng làng! Bên trong là ký ức/ bên ngoài là tha hương... 

Hà Nội. 5/2015